Type something to search...

[Thiền sư] Vĩnh Minh Diên Thọ

  • 27 Sep, 2024
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ - Tổ Sư Thiền - Patriarchal Zen

Giới thiệu

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904 - 976) cũng được gọi là Huệ Nhật Trí Giác (zh. 慧日智覺), Vĩnh Minh Đại sư, là Thiền sư Trung Quốc thuộc tông Pháp Nhãn, nối pháp Quốc sư Thiên Thai Đức Thiều.

Tông Pháp Nhãn rất phồn thịnh dưới sự hoằng hoá của ông. Học chúng đến rất đông – có lúc đến 2000 người để tham Thiền.

Ông có soạn bộ Tông Kính Lục (zh. 宗鏡錄) gồm một trăm quyển, được lưu truyền khá rộng trong giới Thiền.

Ông là tổ sư đời thứ 3 của tông Pháp Nhãn và cũng được tôn xưng là tổ sư đời thứ 6 của Tịnh độ tông Trung Quốc.


Ông họ Vương, tự là Xung Huyền (zh. 冲玄), Bảo Nhất Tử (zh. 抱一子), quê ở Dư Hàng, phủ Lâm An (nay thuộc Hàng Châu tỉnh Triết Giang).

Ông mộ đạo từ nhỏ, không ăn thịt cá, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Ông trì kinh Pháp Hoa chỉ sáu tuần (60 ngày) là đã đọc thuộc lòng.

Trong khi tụng, ông cảm được bầy dê quỳ xuống nghe kinh.[1][2]

Năm 28 tuổi, ông được làm quan trấn ở Hoa Đình nước Ngô Việt và có dịp tiếp xúc với Thiền sư Thuý Nham Lệnh Tham (đệ tử của Tuyết Phong Nghĩa Tồn).

Ông lễ Thuý Nham làm thầy, vì hết lòng phục vụ mọi người mà quên cả chức tước của mình.

Mặc chẳng lụa là, ăn chẳng gia vị ngon ngọt, chỉ mặc vải thô, ăn rau rác qua ngày mà thôi.

Cơ duyên xuất gia của ông cũng rất thú vị và thường được nhắc đến.

Vì thương dân nên ông trộm lấy tiền của vua mà phân phát cho người nghèo. Một vị quan khác biết được bèn tâu lại với vua.

Nghe chuyện này vua rất ngạc nhiên vì ông cứ cho rằng ông là người thuần lương, thành thật.

Để răn chúng dân, vua ra lệnh xử trảm nhưng lại căn dặn vị quan là nếu ông nhận lệnh mà an vui trầm tĩnh thì tha tội và đến trình vua.

Quả thật như nhà vua tiên đoán, ông không tỏ vẻ sợ hãi khi nghe tin này.

Được vua hỏi vì sao, ông trả lời: “Thần muốn từ quan, cống hiến cuộc đời cho tất cả chúng sinh, muốn xuất gia tu học Phật pháp với trọn tấm lòng.”

Nghe như vậy, vua cho phép ông từ quan để xuất gia.

Sau khi xuất gia, ông đến ngọn Thiên Trụ trên núi Thiên Thai và tu tập tọa Thiền trong chín tuần (90 ngày), có chim xích án làm tổ trong áo của ông.

Kế đến, ông đến tham vấn Quốc sư Thiên Thai Đức Thiều và được ấn khả, Đức Thiều căn dặn: “Ông với nguyên soái[note 2]có duyên, ngày sau sẽ đại hưng Phật sự!“.


Vào năm thứ 2 (952) niên hiệu Quảng Thuận (zh. 廣順), ông đến trụ trì tại Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự (zh. 資聖寺). Về sau, thể theo lời thỉnh cầu đặc biệt của Trung Ý Vương (zh. 忠懿王), ông nhậm chức trụ trì Linh Ẩn Tự, rồi chuyển sang Vĩnh Minh Tự (zh. 永明寺) và hoằng pháp tại đây trong vòng 15 năm và độ được khoảng 1.700 đệ tử, tăng chúng tham học trong pháp hội lên đến 2.000 người.[1]

Ông kiêm tu cả Thiền lẫn Tịnh Độ, ban đêm thường hành trì pháp môn Niệm Phật. Nhà vua bèn cho xây dựng Tây Phương Quảng Giáo Điện (zh. 西方廣敎殿) và cử ông đến đây trú trì. Chính vì lẽ đó, Thạch Chi Tông Hiểu (zh. 石芝宗曉) kính ngưỡng ông và coi ông như là vị tổ đời thứ 7 của Liên Tông. Ngoài ra, người đương thời cũng tôn sùng ông là Đấng Từ Thị (zh. 慈氏, Di Lặc) hạ sinh.[1]

Có vị tăng hỏi ông: “Thế nào là diệu chỉ của Vĩnh Minh?” Ông đáp: “Lại thêm hương đi.” Tăng thưa: “Tạ thầy chỉ dạy.” Ông đáp: “Hãy mừng chớ giao thiệp.” Rồi ông làm bài kệ:

Biết diệu chỉ Vĩnh Minh Trước cửa nước một hồ Trời soi ánh sáng dậy Gió sang sóng mòi sinh.[4] Tăng khác hỏi: “Trường Sa Cảnh Sầm có bài kệ:

‘Học đạo chi nhân bất thức chân Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần Vô thủy thời lai sanh tử bản Si nhân hoán tác bổn lai nhân.’

Đâu chẳng phải lìa thức tính riêng có chân tâm ư?” Ông đáp: “Như Lai Thế Tôn trên hội Thủ-lăng-nghiêm vì ngài A-nan-đà giản biệt rất rõ mà ngươi vẫn cố chẳng tin.

Ngài A-nan lấy cái suy xét theo đuổi làm tâm, bị Phật quở đó. Cái suy xét theo đuổi ấy là Thức vậy.

Nếu lấy cái biết pháp, theo tướng là Phiền não thì gọi thức, chẳng gọi tâm.

Ý là nhớ, nhớ tưởng cảnh trước khởi vọng đều là vọng thức, chẳng can gì về việc của tâm. Tâm chẳng phải có không, có không chẳng nhiễm.

Tâm chẳng phải cấu tịnh, cấu tịnh chẳng nhơ. Cho đến mê ngộ phàm thánh đi đứng ngồi nằm đều là vọng thức, chẳng phải tâm vậy.

Tâm xưa nay chẳng sinh, nay cũng chẳng diệt. Nếu biết tâm mình như thế, đối chư Phật cũng vậy.

Cho nên Duy-ma-cật nói: ‘Trực tâm là đạo trường!’ vì không có hư giả vậy.”

Có tăng hỏi: “Học nhân ở tại Vĩnh Minh đã lâu, vì sao chẳng hội gia phong Vĩnh Minh?“.

Ông đáp: “Chỗ chẳng hội nên hội lấy.” Tăng nói: “Chỗ chẳng hội làm sao mà hội?”

Ông đáp: “Thai trâu sanh voi con, biển biết dấy bụi hồng.”

Vua Cao Ly Triều Tiên là Quang Tông (zh. 光宗) xem ngôn giáo của ông cảm thấy rất kính trọng, bèn sai sứ giả sang Trung Quốc thăm hỏi ông, tự mình giữ lệ đệ tử và cho người dùng kim tuyến dệt thành áo ca-sa kết kèm theo rất nhiều châu ngọc để cúng dường cho ông.

Sau vua lại phái 36 vị tăng đến tham học nơi ông và tất cả đều được tông chỉ.

Khi đã đắc pháp, họ quay về Triều Tiên, mỗi người giáo hóa một nơi khiến cho tông Pháp Nhãn được mở mang sang Cao Ly và không bị thất truyền.

Sau khi tiến hành độ tăng, truyền thọ giới pháp và phóng sinh, đến giờ Thìn buổi sáng ngày 26 tháng 12 năm thứ 8 (975) niên hiệu Khai Bảo (zh. 開寶), ông đốt hương lễ Phật, dặn dò đồ chúng rồi ngồi kiết già thị tịch.

Ông thọ 72 tuổi, hạ lạp 42 năm.

Đến ngày mùng 6 tháng giêng năm sau, đệ tử trang nghiêm thỉnh nhục thân ông nhập tháp ở núi Đại Từ.[2][4]

Ngữ lục

Cảnh ngữ

Cửa học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ cần gột sạch căn, trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến giờ. Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với tất cả thứ ái dục ở thế gian tâm không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng, tự nhiên thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc đạo sư chân chánh phải thiết tha thân cận, giả sử tham chưa thấu triệt, học chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành chủng tử đạo trong tàng thức, kiếp kiếp không sa vào ác thú, đời đời không mất thân người, vừa sanh ra một nghe ngàn ngộ

Tác phẩm

Thông tin khác

Tags :
Share :

Related Posts