[Thiền sư] Hà Trạch Thần Hội
- 21 Oct, 2024
Giới thiệu
Thiền sư Hà Trạch Thần Hội (684 - 758)
Ngữ lục
Sư thị chúng rằng:
Này, người học đạo phải đạt tự nguồn. Tứ quả, tam hiền đều gọi là điều phục. Bậc Bích Chi và La Hán còn chưa dứt nghi. Đẳng diệu nhị giác liễu phân minh. Giác có sâu cạn, giáo có đốn tiệm. Tiệm thì trải qua a-tăng-kỳ kiếp còn ở luân hồi. Còn đốn thì trong một co duỗi tay là đăng diệu giác. Nếu kiếp trước không có giống đạo, đồ học đa tri. Tất cả tại tâm, tà chánh do mình. Không nghĩ đến một vật nào thì đó là tự tâm. Không phải trí có thể biết được, liền chẳng biệt hạnh. Ngộ nhập trong đó, đích thực Tam-ma-đề. Pháp không có tới lui. Tiền hậu tế đoạn, cho nên mới biết vô niệm là tối thượng thừa. Khoáng triệt thanh hư, đốn khai bảo tạng. Tâm không sanh diệt, tánh chẳng dời đổi. Tự tịnh thì cảnh lự không sanh ra. Vô tác thì phan duyên tự dứt.
Ta hồi thuở trước, chuyển bất thoái luân, nay được định tuệ song tu. Như nắm đấm, như bàn tay, thấy vô niệm thể. Không rượt đuổi vật sanh, liễu Như Lai thường thì làm sao có chỗ khởi được. Nay ảo chất đó, nguyên là chân thường. Tự tánh như hư không, bổn lai không hình tướng. Đã đạt lý ấy, ai làm mình lo sợ, ai làm mình lo âu. Trời đất không thể biến thể vậy. Tâm qui pháp giới, vạn tượng nhất như. Viễn ly suy tính, trí đồng pháp tánh. Thiên kinh vạn luận chỉ là minh tâm. Nếu đã không lập tâm, tức thể chân lý, đều không có đắc. Báo các kẻ học, đừng hướng ngoài trì cầu. Nếu tối thượng thừa, thì nên vô tác, tạm biệt’.
Có người hỏi:
- Pháp vô niệm hữu vô chăng?
Sư nói:
- Chẳng nói hữu vô.
Hỏi:
- Lúc ấy thì làm sao?
Sư đáp:
- Cũng chẳng có lúc ấy. Do như gương sáng, nếu không đối hình, thì mãi mãi không thấy hình. Nếu thấy không có vật, ấy là chân kiến.
Sư tại Đại Tạng Kinh có sáu điểm nghi, mới hỏi Lục Tổ. Điều thứ nhất hỏi về giới, định, tuệ rằng:
- Giới, định, tuệ là thế nào? Dùng giới là vật nào? Định tu từ nơi nào? Tuệ nhân nơi nào mà khởi lên. Cái chất của con không thông lưu?
Lục Tổ đáp:
- Định là định cái tâm. Đem giới giới cái hạnh. Trong tánh thường tuệ chiếu. Tự thấy tự biết sâu.
Câu hỏi thứ hai là:
- Bổn không nay có, có cái gì. Bổn có nay không, không vật gì? Tụng kinh không thấy nghĩa hữu vô, chẳng khác nào cưỡi lừa mà còn tìm con lừa đang cưỡi đó.
Lục Tổ đáp:
- Niệm trước ác niệm vốn không. Niệm sau thiện sanh khiến có. Niệm niệm thường hành thiện hạnh. Đời sau người trời không lâu. Ông nay chính nghe lời ta. Ta tức bổn vô, kim hữu.
Câu hỏi thứ ba là:
- Đem sanh diệt lại diệt. Đem diệt diệt lại sanh. Chẳng liễu ngộ nghĩa sanh diệt, vốn thấy như kẻ điếc mù.
Lục Tổ đáp:
- Đem sanh diệt lại diệt, khiến người không chấp tánh. Đem diệt diệt lại sanh, khiến người tâm rời cảnh. Nếu rời hai biên, tự trừ bệnh sanh diệt.
Điều hỏi thứ tư là:
- Trước đốn rồi sau đó tiệm. Trước tiệm rồi sau đốn. Người không ngộ đốn tiệm, trong tâm thường mê muội.
Lục Tổ đáp:
- Nghe pháp là tiệm trong đốn. Ngộ pháp là đốn trong tiệm. Tu hành là tiệm trong đốn. Chứng quả là đốn trong tiệm. Đốn tiệm là thường nhân. Trong ngộ không mê muội.
Điều hỏi thứ năm là:
- Trước định sau tuệ, trước tuệ sau định. Định tuệ trước sau cái nào sinh là chính?
Lục Tổ đáp:
- Thường sanh tâm thanh tịnh thì trong định có tuệ. Ngay trong cảnh mà vô tâm, trong tuệ có định. Định tuệ bằng nhau không cái nào trước sau. Song tu tự tâm là chính.
Điều hỏi thứ sáu là:
- Trước Phật rồi sau pháp. Trước pháp rồi sau Phật. Phật và pháp vốn là gốc nguồn. Khởi từ đâu mà ra?
Lục Tổ đáp:
- Nói tức trước Phật rồi sau pháp. Nghe thì trước pháp rồi sau Phật. Nếu luận Phật và pháp vốn nguồn gốc, nhất thiết từ trong tâm chúng sanh mà ra.
Cảnh ngữ
Tác phẩm
Thông tin khác