[Thiền sư] Đức Sơn Tuyên Giám
- 24 Sep, 2024
Giới thiệu
Ngữ lục
- Hòa thượng Đức Sơn dạy chúng :
Các ông từ sáng đến tối có những việc gì ? Chớ nên hở môi lừa, miệng ngựa nói càn nói bậy. Có ai đến hỏi lão Đức Sơn không ? Chẳng hay các ông có nghi ngờ gì ? Bây giờ là thời mạt pháp, có rất nhiều bọn quỉ thần kết bè đi hành cước và nói : “Ta là thiền sư”. Chẳng hay các ông học được bao nhiêu thiền đạo rồi ? Nói cho lão tăng nghe xem. Các ông đi khắp nơi, các lão thiền sư dạy các ông tu hành thành Phật, dạy các ông hành cước, rốt cuộc các ông thành mấy ông Phật rồi ?
Nếu các ông cho rằng không có học thì các ông chạy các nơi làm gì ? Nếu các ông cho rằng có học, hãy đem những điều học được trình cho lão tăng xem. Nếu nói sai một câu thì phải ăn gậy đau điếng đích đáng.
Các ông bị các lão thiền sư kia làm mê hoặc rồi, mới nói : “Ta là người tu hành”, làm kiểu làm cách giống như bộ mặt của người đắc đạo. Chớ nên động dụng tâm tư, muôn kiếp ngàn đời luân hồi trong tam giới là vì các ông có tâm tu cầu.
Vì cớ sao ? Tâm sanh thì các thứ pháp sanh. Nếu một niệm chẳng sanh thì hằng thoát khỏi sanh tử, không còn bị sanh tử trói buộc, ưng đi thì đi, ưng ngồi thì ngồi, tự do tự tại, lại còn có việc gì để làm ?
Nhân giả, ta thấy các ông đến lão thiền sư các nơi phát tâm học Phật pháp không tiếc thân mạng, các ông đều bị đinh đâm tròng mắt làm đoạn thân mạng, như hai ba trăm dâm nữ nói: “Đấng Pháp vương của chúng ta dựng lập Phật pháp và khai nhãn cho người sau”. Những người như thế tự của vương của chúng ta dựng lập Phật pháp và khả được không?
Nhân giả, các ông nói tu hành như thế, đầu chẳng nghe nói : “Phật Thích-ca tu hành trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp mà nay còn đâu ?” Đến 80 tuổi ngài chết có khác gì các ông.
Các ông chớ nên cuồng vọng. Ta khuyên các ông thôi đi, dừng đi. Các ông vừa khởi một niệm đó là quyến thuộc của ác ma rồi, cũng chính là kẻ phàm phu tục tử phá giới. Các ông thấy ta thuyết pháp thì có năm mười kẻ dụm đầu đến vấn nạn ta đợi đến khi ta câm mồm đớ lưỡi mới chịu thôi, té ra các ông là đám lâu la. Bây giờ các ông sao không ra đây ? Cây dùi để trong túi vải rách mà không chỉa đầu ra ngoài là người khéo. Ta muốn hỏi thật, các ông chớ lầm!
Nhân giả, từ nhóm này đến nhóm khác kéo nhau đi hành cước, nói “ta hiểu thiền hiểu đạo. Vỗ hông vỗ ngực, đến đâu cũng khoe khoang, nhưng đến đây phải mửa hết mới được vô sự.
Các ông chỉ cần bên ngoài không chấp thanh sắc, bên trong không có bất cứ tri thức kiến giải gì. Bản thể không phân thánh phàm, lại còn học cái gì ? Giả sử học được trăm ngàn diệu nghĩa cũng chỉ là con quỉ ăn ung mủ, tất cả đều là tinh hồn quỉ mị.
Ta nói cái rỗng không, nói có mà chẳng phải có, nói không cũng chẳng phải không, nói phàm chẳng phải phàm, nói thánh chẳng phải thánh, đặt nó tất cả chỗ không được, cùng các ông làm thầy muôn pháp, lão Đức Sơn tôi cũng không dám chửi nó.
Cho nên lão Hồ mửa ra bao nhiêu phương tiện đàm dãi đều là dạy các ông vô sự đi ! Chớ nên tìm cầu bên ngoài. Các ông không chịu nhận mà muốn thu thập những ngôn cú hay chất đống trong lòng, rồi dùng miệng lưỡi nói bàn khoe khoang cho người ta biết mình là thiền sư và muốn tìm chỗ xuất đầu lộ diện. Nếu khởi kiến giải như thế, có ngày rơi vào địa ngục Bạt Thiệt.
Các ông đến các nơi tìm người, nói ta là thiền khách môn hạ của Tổ sư, nhưng bị các ngài hỏi đến việc bổn phận (việc minh tâm kiến tánh) thì miệng như khúc cây, nói nào là Bồ-đề, Niết-bàn, chân như, giải thoát và dẫn rộng lời dạy trong kinh nào là thiền là đạo. Đó là hạng người tầm thường, đối với thiền có quan hệ gì ? Chỉ là hủy báng Tiên Tổ của ta mà thôi.
Sự nhận biết của Đức Sơn thì không như thế. Ở đây, Phật cũng không có, pháp cũng không luôn. Đạt-ma là ông già Hồ tanh hôi, Bồ-tát Thập địa là kẻ gánh phẩn, Đẳng giác và Diệu giác là kẻ phàm phu phá giới, Bồ-đề, Niết-bàn là cây cọc cột lửa, lau ghẻ, Tứ quả, Tam hiền, Sơ tâm, Thập địa đều mười hai phần giáo là bộ sổ của quỷ thần, là giấy ở là quỷ giữ mồ xưa, tự cứu được không ? Phật là Cục phân của lão Hồ.
Nhân giả, chớ lầm, thân mặc áo ghẻ bướu học việc gì ? Ăn no rồi nói chơn như Niết-bàn, dưới da có máu chăng ? Phải là đại trượng phu mới được.
Các ông chớ nên mến thánh, thánh là tên suông. Ở trong ba cõi mười phương, nếu có một hạt bụi một pháp để cho các ông cầu được, cho các ông chấp trước, sanh tri giải, giữ gìn để làm vật quý trọng, đều rơi vào thiên ma ngoại đạo. Giả sử có người học được cũng là bọn tinh mị dã hồ nương tựa cỏ cây.
Ở đây ta không có một pháp cho các ông sanh phải là thiện tri thức, không biết gì cả, chỉ biết đi tri giải, chính ta cũng không hiểu thiền, cũng không Tổ, đều hoằng tiêu, đi tiểu, ăn cơm mặc áo, lại có việc gì ?
Lão Đức Sơn tôi khuyên các ông chi bằng vô sự đi ! Chớ học người điên cuồng. Mỗi người mang t thi sống đến đến đi đi, đến đâu cũng ăn đàm dãi của các thiền sư, rồi nói :“Ta nhập Tam-muội, tích lũy tu hành, trưởng dưỡng thánh thai, nguyện thành Phật quả”. Những người như thế, lão Đức Sơn tôi thấy như tên độc bắn vào tim, như kim châm vào mắt. Họ cô phụ Tiên Tổ mà còn làm liên lụy đến Thiền tông của ta. Họ còn nói : “Ta là người xuất gia”. Những người như thế tổn hao của tín thí mười phương, một giọt nước cũng không tiêu được. Chớ nên mưu tính nói : “Ta dám đi trên đất của quốc vương”. Đối với cha mẹ thì không cung kính, há không tội lỗi sao ? Chớ lầm dụng tâm, vua Diêm La sẽ có ngày đòi tiền giày cỏ các ông, xỏ mũi để đền nơ trước. Chớ bảo lão tăng này không nói.
Các ông thật có phước gặp Đức Sơn ra đời cởi trói buộc cho các ông thoát khỏi lồng giam, gỡ dây khỏi lưng ngựa được làm người tốt, khiến cho ba cõi sáu đường thâu nhiếp các ông chẳng được, lại không có pháp môn nào khác, nó là cái rỗng không thênh thang không có gì làm chướng ngại, tự do tự tại. Cảnh giới ấy không phải các ông đầy đủ trang nghiêm mà được. Không luận là Phật hay Tổ, đều hoằng truyền pháp này mà được xa lìa ba cõi.
Một đại tạng kinh chỉ là đạo lý hoàn chỉnh. Ngày nay các ông chớ tìm cầu bên ngoài, thậm chí Đạt-ma mắt xanh nước Hồ đến đây cũng dạy các ông vô sự và dạy các ông chớ nên tạo tác, mặc áo ăn cơm, đi tiêu đi tiểu cũng không có sanh tử để sợ, cũng không có Niết-bàn để được, không có Bồ-đề để chứng, chỉ là bình thường làm người vô sự.
Thứ nhất, chớ nên khoanh tay làm thiền tìm chỗ giáo hóa, dùng lời khéo léo lừa gạt kẻ hậu sanh. Muốn người ta gọi các ông là trưởng lão mà chính mình không chút quan hệ gì về tông chỉ Thiền tông, chỉ biết hoạt động tâm thức ngày đêm tác quái chẳng dừng và trịnh trọng khen mình “Ta là đệ tử của Mã Đại Sư ở Giang Tây”. Lão Đức Sơn này không phải là những hạng người như các ông. Ta thấy Hòa thượng Thạch Đầu không biết tốt xấu gì cả. Cho nên ta quở mắng ông ấy.
Các ông chớ nên chấp vào các niệm : thanh sắc, ngôn ngữ, phàm thánh, thủ xả, phan duyên, nhiễm tịnh, tối sáng, có không. Nếu được như thế mới là người vô sự. Phật cũng chẳng bằng các ông, Tổ cũng không bằng.
Nhân giả, các ông chớ chạy mòn gót chân, không có Thiền đạo nào khác để học, nếu học được cũng là kiến giải ngoại đạo nói năng lải nhải thôi. Cũng không có thần thông biến hóa để được. Các ông nói thần thông biến hóa là thánh, chư thiên, long thần, ngoại đạo, Tu-la cũng có thần thông, như vậy là Phật sao ? Ở trên núi một mình, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳng nằm, sáu thời lễ tụng mà còn lo việc sanh tử của mình. Lão Hồ nói: “Các hành vô thường, là pháp sanh diệt”. Nếu nói nhập định lắng thần bặt hết suy nghĩ để được giải thoát thì các ngoại đạo như Ni-kiền-tử cũng có thể nhập đại định tám muôn kiếp, như vậy họ là Phật sao ? Phải biết rằng đó là tà kiến tinh mị.
Nhân giả, lão Hồ chẳng phải là thánh, Phật là cục cứt của lão Hồ, các ông phải phân biệt tốt xấu, không nên chấp vào tự ngã thì không bị chư thánh cột, không bị Bồ-đề cột, không bị cảnh giới thù thắng ngữ ngôn diệu nghĩa nhận chìm trói buộc. Vì cớ sao ? Nếu một niệm vọng tâm chưa hết thì sanh tử nối tiếp.
Nhân giả, thời giờ quý báu, chớ để tháng ngày trôi qua. Lão tăng chỉ mong các ông hộ trì Phật pháp, gánh vác trọng trách Phật pháp mà lưu truyền. Nếu các ông thấy ta nói đúng thì tin nhận, nếu không tin nhận thì mỗi người đều cầm cái bát phân trong tay. Lão tăng cũng chẳng cần các ông. Các nơi có rất nhiều thiền sư nói thiền nói đạo, các ông hãy mau đến học, ghi chép. Ở đây ta không có một pháp cho các ông.
Nhân giả, học hiểu nhiều để tăng thêm tri thức kiến giải, lão tăng không làm như thế, vì lão tăng không chấp nhận vào địa ngục Bạt Thiệt. Nếu có một trần một pháp để dạy các ông, nói rằng có Phật có pháp, có tam giới để ra, đều là dã hồ tinh mị.
Các nhân giả muốn biết chăng ? Chỉ là cái rỗng không, không có một hạt bụi để được, nơi nào cũng thanh tịnh, ánh sáng hiện khắp trong ngoài, tự do tự tại, không chỗ để nương tựa thì còn có việc gì ?
Lão tăng từ sanh đến tử chỉ là lão Tỳ-kheo, sanh trong tam giới mà không cấu nhiễm. Mưa được ra khỏi tam giới phải đến chỗ nào ? Giả sử chỗ đến cũng là lồng bẫy, mà quỷ sẽ có cơ hội thuận tiện.
Nhân giả, chớ nên dùng tâm suy nghĩ, vì không thanh sắc làm ô nhiễm, những điều tạo tác từ trước thảy đều buông hết, chóng thoát gông cùm hằng lìa phiền não trói buộc. Một niệm không sanh, có thể khiến quá khứ vị lai thảy đều dứt bặt, không có suy tư, không có vọng niệm, cũng không có một pháp cho các ông động tình.
Nhân giả, làm sao mở miệng ? Các ông nhiều tri thức kiến giải, có biết mặt mày chân tánh không? Người xuất gia cho đến hàng Bồ-tát đến cảnh giới Thập địa muốn tìm dấu vết của chân tánh đều không thể được. Cho nên chư thiên hoan hỷ, địa thần đỡ chân, mười phương chư Phật khen ngợi, ma vương khóc lóc. Vì sao ? Vì cái chút khí rỗng không thênh thang này không có cội gốc, không có chỗ nơi cố định để dừng trụ. Nếu đến người tu chỗ này mà mắt nhìn mê hoặc chẳng biết thì không dính dáng gì cả.
Nhân giả, chớ nên cầu Phật, Phật là đại giặc giết người, lừa bao nhiêu người rơi vào hầm ma dâm. Chớ nên cầu Văn-thù, Phổ-hiền, các ngài là kẻ tớ quê. Đáng tiếc cho một kẻ trượng phu đường đường mà lại uống thuốc độc của người và muốn cước các nơi, thấy thần thấy quỷ rồi tìm thầy bói, bị các lão trọc dốt xủ quẻ bảo đi lễ quỷ Tổ sư, lễ quỷ Phật, lễ quỷ Bồ-đề, Niết-bàn. Những tiểu dâm nữ kia không biết gì cả bèn hỏi lão trọc : “Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang ?”. Lão trọc liền gõ giường thiền làm bộ làm tịch, hoặc đưa phất tử lên nói : “Trời tốt, mưa tốt, lồng đèn tốt !”. Rồi dùng lời lẽ khéo léo nói những phương pháp tiếp dẫn người học, nào là đường huyền, đường chim, xòe tay. Nếu nói như thế, như đem bát báu đựng đồ dơ, đem phẩn làm hương chiên đàn.
Nhân giả, kia là trượng phu, ta đây cũng vậy. Ai sợ ai ? Cả ngày chỉ nhận đàm dãi trong miệng của các lão thiền sư mà không biết hổ thẹn, khổ thay ! Khổ thay ! Sẽ làm các ông phát cuồng, nhân trước quả sau rất rõ ràng. Đến lúc làm trâu kéo cày mang bừa, hai mắt trợn trắng không còn chút khí lực mà lại bị người đánh vào lưng. Các ông cướp y phục, vật thực của Phật mà nói “Ta là người tu hành xong”. Nếu chẳng hiểu lý đại đạo Phật pháp, dù cho các ông có đi trong bụng Phật cũng chỉ là đi trên đống phân, không thể nào gặp được người tốt.
Lại có một số người dụm đầu một chỗ bàn luận về vô sự ở đâu, từ Đông sang Hạ nói thiền nói đạo, luận giải đạo lý Phật pháp để cầu tri thức kiến giải.
Nhân giả, dùng những kiến giải như thế để tìm tiện nghi, há có đạo lý ấy sao ? Có ngày vào địa ngục, các ông chớ trách ta chẳng nói. Đến lúc đó một cọng rau cũng không có, một cây củi cũng không, một mai hết phước chỉ đi ăn cỏ mà thôi đó Như thế ngày tháng trôi qua, luống tiêu hao tán vật của tín thí mà còn lạm dụng xưng ta là kị tham thiền và bắt chước kiểu cách thiền sư, không ích gì cho người. Cả ngày dính mắc vào sự vậ thấy người thì nịnh nọt ton hót, nói Đông nói Tây, nhưng thật ra trong mắt ngoài miệng không biết gì cả mà muốn dùng những ngôn ngữ tương tợ Phật lý để khám nghiệm người học ngộ giải Lão tăng có khác các ông đâu. Kẻ quân tử chớ n nhất thời trước mắt mà miệng khoái ăn thuốc độ của người, giống như dâm nữ chẳng trì trai gì giới. Những kẻ trọc mù như đám tăng dê này làm điên đảo người ta phải vào địa ngục. Nhân giả các ông chớ nên xem sách tìm tòi ngôn cú, tìm câu hay câu dở, nhai ngốn vào miệng đến bao giờ mới thôi ?
Lời khuyên của lão tăng không phải là việc ác. các ông cần phải phân biệt rõ ràng thế nào là Phật, thế nào là ma ? Chớ để bị người lừa. Sở di lão Hồ (Phật) nói ra những danh ngôn thù thắng là vì phương tiện tạm thời, các ông phải thôi đi chớ nương tựa một vật. Tìm ngôn ngữ để lý giải, phân biệt thân sơ không phải tự mình thân chứng mà được.
Nhân giả, lão tăng sợ các ông rơi vào hầm hố, được ít cho là nhiều, ở chỗ yên lặng không chịu khua môi múa lười, làm những việc bạc phước, tiến lên, chạy loạn các nơi bám theo ngoại cảnh. Bởi vì các ông không chịu tin cái rỗng không vốn là vô sự, không tăng không giảm. Các ông giống như con quạ, thân ở trong hư không tâm trên đồng phẩn, chỉ tìm thấy chết mà ăn.
Các ông chớ bảo lão Đức Sơn này chẳng từng vào tùng lâm thương lượng, ta to tiếng mắng người không chút nhân tình, không sợ tạo nghiệp, chỉ vì các ông không chịu giữ tâm mình, bôn ba tứ phương nương tựa kẻ khác, giống như quỷ cái truyền bá ngôn ngữ, nương theo việc mà khởi tri giải, tâm không thanh tịnh. Các ông không có chỗ đứng mà còn mang vác tử thi, mang gông đeo cùm cả ngàn dặm đến trước mặt Đức Sơn đứng kiểu chữ bát ( ) như ta thiếu nợ thiền đạo các ông vậy, còn nói: “Hòa thượng phải thuyết pháp cho con, chỉ dạy cho con”. Lão tăng tôi vận dụng toàn thân đập cho một gậy, chửi hắn là kẻ giặc, mang bộ mặt thối đến đây không biết tốt xấu gì cả. Đó là vì muốn cho các ông buông bỏ gánh nặng, tháo gỡ gông cùm trở thành người tốt. Các ông đồng ý không ? Nếu đồng ý thì ở lại đây, bằng không mặc tình đi nơi khác.
Trân trọng!
Cảnh ngữ
Tác phẩm
📖
Thông tin khác
🧷