NGỮ LỤC TỔ SƯ THIỀN TINH TUYỂN
- 15 Dec, 2024
MỤC LỤC
TS. HOÀI NHƯỢNG - Nam Nhạc
- Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
- Ngươi học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm.
Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả.
Ngươi nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia.
- Ngươi học pháp môn tâm địa như gieo giống, ta nói pháp yếu như mưa móc, nếu duyên ngươi hợp sẽ thấy đạo này.
- Con mắt pháp tâm địa hay thấy được đạo, Vô tướng tam-muội cũng lại như vậy.
- Nếu lấy cái thành hoại tụ tán mà thấy đạo là không thể thấy đạo.
```
Tâm địa hàm chư chủng
Ngộ trạch tức giai manh
Tam-muội hoa vô tướng
Hà hoại phục hà thành?
```
Dịch:
```
Đất tâm chứa các giống
Gặp ướt liền nảy mầm
Hoa tam-muội không tướng
Nào hoại lại nào thành?
```
> Tất cả các pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh, pháp không thể trụ. Nếu đạt tâm địa việc làm không ngại, không phải thượng căn dè dặt chớ nói.
(Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh, tâm vô sở sanh, pháp vô sở trụ. Nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại, phi ngộ thượng căn nghi thận từ tai.)
> Như gương đúc tượng, sau khi tượng thành, tuy không chiếu soi, nhưng dối y một điểm cũng chẳng được.
TS. VĂN ÍCH - núi Thanh Lương
> Thấy đạo là gốc, sáng đạo là công, liền hay được sức đại trí tuệ.
Nếu chưa được như thế thì, việc đáng yêu thích trong tam giới phải dạy dẹp hết, vừa có một mảy may lại là chưa được.
Như các ông khi ngủ chẳng sân bèn hỉ, đây là cảnh giới hôn loạn huân tập đã thuần thục ở trong tam giới.
Không tỉnh táo thì hỗn loạn, bởi duyên các ông tạp loạn gây nên.
Cổ nhân gọi đó là đến vàng hóa ra mà lầm cho là vàng ròng, nó còn chẳng bằng vàng trong mỏ.
Nếu nhìn thấy tột xương thấu tủy, ấy là sức siêu thoát của các ông.
Nếu chưa được như thế, nên xem xét cái gì là lầu đài điện các?
Chư Thánh chưa hẳn thường nắm tay ông, ông chưa hẳn nương theo mà đi, xưa nay như thế vậy.
***
> Chư Thượng tọa! Thời tiết lạnh cần gì đến đây? Hãy nói đến đây là tốt hay chẳng đến đây là tốt?
Hoặc có Thượng tọa nói: Chẳng đến đây là tốt, vì chỗ nào chẳng phải, lại cần đến đây làm gì?
Hoặc có Thượng tọa nói: Y cũng chẳng đặng một chiều, cần đến chỗ Hòa thượng mới được?
> Chư Thượng tọa! Hãy nói hai người ấy đối trong Phật pháp lại có tiến thú hay không?
Thượng tọa! thật là chẳng được đồng, không có một tí có thể tiến thú.
Người xưa gọi là chùy sắt không lỗ, mù từ bé, điếc từ bé, không khác.
Nếu lại có một Thượng tọa bước ra nói?hai người kia đều không được?
Vì sao như thế? Vì y còn chấp trước, cho nên chẳng được.
> Chư Thượng tọa! Như thế thật giống hành khước như thế thật giống thương lượng, còn mong làm gì?
Hay là chỉ cần khua môi múa mỏ? hay là riêng có chỗ mong?
Sợ e y chấp trước là chấp trước cái gì? Hay là chấp trước lý, chấp trước sự, chấp trước sắc, chấp trước không? Nếu chấp lý, lý là cái gì mà chấp?
Nếu chấp sự, sự là cái gì mà chấp? Chấp sắc chấp không cũng như thế.
> Sở dĩ bình thường, Sơn tăng nói với chư Thượng tọa 10 phương chư Phật, mười phương thiện tri thức luôn luôn duỗi tay; chư Thượng tọa luôn luôn nắm tay.
Mười phương chư Phật luôn luôn duỗi tay, là duỗi ở chỗ nào?
Chư Thượng tọa luôn luôn nắm tay, lại có chỗ hội, hội lấy là tốt.
Nếu chưa hội được, chớ nói: đều phải, đồng đến, toàn lấy.
> Chư Thượng tọa! Người hành khước nhà bên cần phải xét kỹ, phải để hết tinh thần, không nên trông cậy vào trí tuệ chút ít, qua mất thời đẹp đẽ.
> Câu hỏi đó là không hiểu lời của người xưa. Làm sao mà nói với họ là ông rất hiểu.
Nơi nào là chỗ họ hiểu. Phải chăng trong phần sự của họ liền điểm với họ.
Phải chăng vì họ không hiểu cách hỏi nên phản xạ họ. Vốn chẳng phải lý ấy. Hãy cẩn thận đừng hiểu lầm.
Trừ hai thứ hiểu ấy thì chẳng có thương lượng thế nào cả.
Này các vị thượng tọa, nếu lãnh hội lời ấy thì lãnh hội được cửa tổng trì của chư Thánh vậy.
Nhưng mà làm sao lãnh hội đây? Nếu mà lãnh hội được một âm diễn thuyết mà tùy theo loại đều được liễu giải.
Phải có cái khứ xứ mới được. Mỗi ngày xuống lên, lui tới, lại không đương nổi nhân sự.
Phải nên nghiên cứu đạo nhãn mới được. Người xưa nói: ‘Tất cả mọi thanh đều là Phật thanh. Tất cả mọi sắc đều là Phật sắc’.
Tại sao không chịu hiểu như thế?
> Cái mà ông tìm là tâm tiếng gì? Là tăng thanh hay là tục thanh? Là phàm thanh hay Thánh thanh? Có cho lãnh hội không?
Nếu thế thật không lãnh hội đấy. Này các vị thượng tọa rầm rĩ là thanh, rầm rĩ là sắc.
Thanh sắc chẳng ra làm sao cả. Không nên cho đó là nhàn rỗi.
Này các thượng tọa, nếu lãnh hội được tức là chân thật. Còn nếu không lãnh hội thì đó là ảo hóa.
Nếu mà lãnh hội tức là ảo hóa. Nếu không lãnh hội, đó là chân thật.
Người xưa cũng hướng về các vị thượng tọa nói: ‘Chỉ có ta là biết được’.
Trừ điều đó ra thì chẳng có chỗ tính toán.
Này các vị thượng tọa, thành hay không thành từ đâu mà ra.
Phải cùng chẳng phải từ đâu mà ra. Lý không sự thì chẳng hiển.
Sự không lý thì chẳng tiêu. Sự lý không hai, không sự không lý. Không lý không sự, chú giải như thế với chư thượng tọa.
Nếu mà cũng chẳng hiểu, thì không chi bằng y theo lời xưa mà thôi.
Người xưa thấy các thượng tọa bách ban chẳng được, cho nên phải rủ lòng hướng các vị mà nói, tương văn trì Phật Phật, sao lại chẳng văn văn.
Không có chuyện gì nữa, tạm biệt!
> Người xuất gia chỉ cần tùy thời mà hành, theo tiết mà động đáng lạnh thì lạnh, đáng nóng thì nóng.
Kinh nói: ‘Nếu muốn biết nghĩa Phật tánh, phải quán sát thời tiết, nhân duyên’.
Xưa nay phương tiện như thế đều không thiếu, như đương sơ Hòa thượng Thạch Đầu nhân xem ‘Triệu Luận’ nói: ‘Hiểu vạn vật là mình, điều đó chỉ ở Thánh nhân thôi’.
Ngài liền thọ nhận khải phát, nói: ‘Thánh nhân không tự mình, không gì là không xong’.
Nhân đó mà ngài soạn ‘Tham Đồng Khế’ một thiên, cuối sách nói: ‘Trúc thổ đại tiên tâm’, đúng là không quá lời ấy, trong ngoài Trung Quốc đều không có pháp nào khác.
Thạch Đầu lại dặn dò mọi người rằng: ‘Đừng để qua luống thời gian’.
Mới vừa rồi nói với các thượng tọa tùy theo thời tiết mà động dụng thì mới có thể nóng lạnh tự mình biết.
Nếu như trái thời, trở tiết, ấy đều là qua luống thời gian, từ trong hư ảo lặn mò thực tại, ấy là trái thời, trở tiết.
Hãy nói coi, lấy không ảo mà làm thực tại, điều đó thỏa đáng hay không?
Các thượng tọa nếu dùng lời lẽ như thế mà giải hội, thì sẽ cùng đạo Phật rời xa lắm vậy.
Do đó, mà thượng tọa chỉ nên thủ phận tùy thời, lấy bổn lai diện mục của tự kỷ mà hành sự.
Tạm biệt!
***
# Sư thượng đường, đại chúng đứng lâu. Sư bèn bảo chúng:
> Chỉ thế ấy thì giải tán đi, lại có Phật pháp hay không, thử nói xem? Nếu không lại đến trong ấy làm gì?
Nếu có, thì trong chợ chỗ nhiều người tụ hội cũng có, cần gì phải đến trong ấy?
Chư vị! mỗi người đã từng xem Hoàn Nguyên quán, Bách Môn nghĩa hải, Hoa Nghiêm luận, Niết-bàn kinh, các kinh sách rất nhiều, cái gì trong kinh có thời tiết ấy?
Nếu có, thử nêu ra xem! chẳng là trong kinh thế ấy, có những lời thế ấy, đó là thời tiết chăng? Có cái gì là giao thiệp.
Sở dĩ lời hay kẹt ở đầu tâm, thường làm môi trường cho duyên lự, thật tế ở ngay trước mắt, đổi làm cảnh danh tướng, lại làm sao được đổi?
Nếu đã đổi rồi thì làm sao được chánh? Hội chăng? Nếu chỉ niệm kinh sách thế ấy, có dùng vào chỗ gì?
***
# Sư lại nói:
> Làm sao hội? Chớ nói, đến hỏi thế ấy, bèn chẳng được đạo của ông.
6 chỗ chẳng tri âm, chỗ mắt chẳng tri âm? chỗ tai chẳng tri âm?
Nếu vậy chỗ căn bản có tìm hiểu là không được.
Người xưa nói: lìa thanh sắc mắc thanh sắc, lìa danh tự mắc danh tự.
Do đó, cõi trời Vô tưởng tu được trải qua 8 muôn đại kiếp, một hôm cũng phải thối đọa, các việc rõ ràng.
Bởi vì chẳng biết căn bản chân thật, tu hành theo thứ lớp, 3 đời 60 kiếp, 4 đời 100 kiếp, như thế thẳng đến 3 a-tăng-kỳ quả mới tròn đầy.
Người xưa vẫn nói: chẳng bằng một niệm duyên khởi vô sanh, vượt khỏi cái thấy của tam thừa quyền học kia ...?
Lại nói: khảy móng tay tròn thành tám vạn môn, sát-na diệt hết nghiệp ba kỳ.
Phải cần thể cứu. Nếu như thế dùng khí lực bao nhiêu?
***
# Sư thượng đường dạy chúng:
> Người xuất gia chỉ tùy thời và tiết, liền được lạnh thì lạnh, nóng thì nóng, muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên,
xưa nay phương tiện chẳng ít.
Đâu chẳng thấy Hòa thượng Thạch Đầu nhân xem Triệu Luận, trong ấy nói: hội muôn vật về nơi mình, kia chỉ là người Thánh vậy.
Ngài liền nói: thánh nhân không mình, cái gì chẳng mình, liền làm mấy lời gọi là Đồng tham khế.
Trong ấy câu mở đầu nói: tâm đại tiên trúc độ, không qua lời này vậy khoảng giữa chỉ tùy thời nói thoại.
> Thượng tọa! nay muốn hội vạn vật là mình chăng? Bởi vì đại địa không có một vật có thể thấy. Ngài lại dặn dò rằng: ngày tháng chớ qua suông.
Vừa rồi, nói với các Thượng tọa chỉ tùy thời và tiết liền được.
Nếu là đổi thời mất hậu tức là qua suông ngày tháng, ở trong cái phi sắc khởi hiểu sắc.
Thượng tọa! ở trong cái phi sắc khởi hiểu sắc tức là đổi thời mất hậu?
Hãy nói sắc khởi hiểu phi sắc lại đúng chẳng đúng?
Thượng tọa! nếu hội thế ấy tức là không giao thiệp, chính là si cuồng chạy theo hai đầu có dùng được chỗ gì?
Thượng tọa! chỉ giữ phần tùy thời qua là tốt.
Trân trọng.
***
# Sư thượng đường bảo:
> Chư Thượng tọa! Thời tiết lạnh cần gì đến đây? Hãy nói đến đây là tốt hay chẳng đến đây là tốt?
Hoặc có Thượng tọa nói: chẳng đến đây là tốt, vì chỗ nào chẳng phải, lại cần đến đây làm gì?.
Hoặc có Thượng tọa nói: y cũng chẳng đặng một chiều, cần đến chỗ Hòa thượng mới được.
Chư Thượng tọa! hãy nói hai người ấy đối trong Phật pháp lại có tiến thú hay không?
Thượng tọa! thật là chẳng được đồng, không có một tí có thể tiến thú.
Người xưa gọi là chùy sắt không lỗ, mù từ bé, điếc từ bé, không khác.
Nếu lại có một Thượng tọa bước ra nói: hai người kia đều không được.
Vì sao như thế? Vì y còn chấp trước, cho nên chẳng được.
> Chư Thượng tọa! như thế thật giống hành khước như thế thật giống thương lượng, còn mong làm gì?
Hay là chỉ cần khua môi múa mỏ? Hay là riêng có chỗ mong?
Sợ e y chấp trước là chấp trước cái gì? Hay là chấp trước lý, chấp trước sự, chấp trước sắc, chấp trước không?
Nếu chấp lý, lý là cái gì mà chấp? Nếu chấp sự, sự là cái gì mà chấp? Chấp sắc, chấp không cũng như thế.
Sở dĩ bình thường, Sơn tăng nói với chư Thượng tọa mười phương chư Phật, 10 phương thiện tri thức luôn luôn duỗi tay; chư Thượng tọa luôn luôn nắm tay.
10 phương chư Phật luôn luôn duỗi tay, là duỗi ở chỗ nào? Chư Thượng tọa luôn luôn nắm tay, lại có chỗ hội, hội lấy là tốt.
Nếu chưa hội được, chớ nói: đều phải, đồng đến, toàn lấy.
> Chư Thượng tọa! người hành khước nhà bên cần phải xét kỹ, phải để hết tinh thần, không nên trông cậy vào trí tuệ chút ít, qua mất thời đẹp đẽ.
***
# Sư thượng đường nói:
> Này các thượng tọa, trời lạnh cần chi phải đến đây. Hãy nói coi đến đây tốt hay không đến đây tốt.
Hoặc có vị thượng tọa nói: ‘Không đến là tốt, có chỗ nào không đúng’.
Vậy thì đến đây làm gì? Có vị thượng tọa lại nói: ‘Vì y không được một hướng nên phải đến Hòa thượng mới được’.
Này các thượng tọa, thử nói xem hai người ấy đối với trong Phật pháp có tấn thú chưa vậy?
Này các thượng tọa, thật sự là chưa được đấy, lại chẳng có tí nào tấn thú.
Người xưa gọi đó là cây dùi sắc điếc đặc (tức ám chỉ Thiền tăng u tối không tiếp dẫn học hỏi được), chẳng khác chi kẻ mù, kẻ điếc vậy.
Nếu có vị thượng tọa bước ra nói hai người kia đều không được thì tại làm sao mà như thế? Vì họ chấp trước cho nên không được.
Này các thượng tọa, tóm lại giống như hành cước như thế, tóm lại giống như thương lượng như thế. Vả lại định làm cái gì?
Hay chỉ muốn khua môi múa mỏ? Hay lại có ý đồ gì khác. Sợ y chấp trước, mà chấp trước cái gì chứ? Hay là chấp trước lý, chấp trước sự.
Chấp trước có, chấp trước không. Nếu là chấp lý thì lý lại làm sao chấp được.
Nếu chấp sự thì sự cũng làm sao mà chấp được? Trước có, trước không, cũng đều như thế.
Sơn tăng ta thường hướng về các thượng tọa mà nói rằng: Chư Phật mười phương, chư thiện tri thức mười phương thời thường thỏng tay.
Chư thượng tọa thời thường tiếp lấy tay chư Phật mười phương thỏng tay thì có đấy.
Nơi nào là chỗ chư thượng tọa tiếp tay? Có chỗ lãnh hội thì nên lãnh hội đi. Nếu không lãnh hội được thì chớ có nói tất cả đều là viên thủ.
Này chư thượng tọa, đi từng nhà hành cước cũng nên xem kỹ tình thái, chớ nên nương theo trí tuệ kém mà luống qua thời quang.
Sơn tăng ta thời còn tại chúng thấy điều đó rất nhiều.
Lại có một nhóm thượng tọa, tự mình đông tây còn chưa biết, hướng bên này bên kia, nghe bên đông, nghe bên tây, nói được ít đỉnh cho là đầy trong bụng, hướng về người khác chú giải, cho là chỗ ngộ thấy của mình.
Này chư thượng tọa, tất cả như các tăng hành cước đó, tự lừa mình rồi lừa người.
Xin các thượng tọa hãy làm sáng mắt đạo là hơn. Chút đỉnh cơm cháo trí tuệ không đủ ỷ lại. Nếu là thế gian tạo tác lớp lớp sự việc không đúng, sai trái thì vào địa ngục còn có số kiếp nhất định, còn có kỳ hạn ra khỏi.
Nếu là nhầm lẫn thuyết giảng cho người khác đạo pháp, thì rơi vào địa ngục, tăm tối như đêm trường, không có kỳ hạn ra khỏi được.
Đừng để nhàn rỗi luống qua mà hãy nương theo cửa từ bi của bậc cổ đức mới được.
Bậc Thánh xưa thấy chư cảnh chính là thấy tự tâm.
Lục Tổ nói: ‘Chẳng phải phướn động, chẳng phải gió động mà chính là tâm của nhân giả động’, thì nên hiểu theo thế nào mới đúng?
Đừng có thân nơi chỗ thân.
Sư nín lặng hồi lâu lại nói:
> Này các vị thượng tọa, nháy mắt cũng được mà bóc gọt cũng được.
***
# Sư lại nói:
> Câu hỏi đó là không hiểu lời của người xưa. Làm sao mà nói với họ là ông rất hiểu.
Nơi nào là chỗ họ hiểu. Phải chăng trong phần sự của họ liền điểm với họ.
Phải chăng vì họ không hiểu cách hỏi nên phản xạ họ. Vốn chẳng phải lý ấy. Hãy cẩn thận đừng hiểu lầm.
Trừ 2 thứ hiểu ấy thì chẳng có thương lượng thế nào cả.
Này các vị thượng tọa, nếu lãnh hội lời ấy thì lãnh hội được cửa tổng trì của chư Thánh vậy.
Nhưng mà làm sao lãnh hội đây? Nếu mà lãnh hội được một âm diễn thuyết mà tùy theo loại đều được liễu giải.
Phải có cái khứ xứ mới được. Mỗi ngày xuống lên, lui tới, lại không đương nổi nhân sự.
Phải nên nghiên cứu đạo nhãn mới được. Người xưa nói: ‘Tất cả mọi thanh đều là Phật thanh. Tất cả mọi sắc đều là Phật sắc’.
Tại sao không chịu hiểu như thế?
***
# Sư hỏi:
> Cái mà ông tìm là tâm tiếng gì? Là tăng thanh hay là tục thanh? Là phàm thanh hay Thánh thanh? Có cho lãnh hội không?
Nếu thế thật không lãnh hội đấy. Này các vị thượng tọa rầm rĩ là thanh, rầm rĩ là sắc.
Thanh sắc chẳng ra làm sao cả. Không nên cho đó là nhàn rỗi.
Này các thượng tọa, nếu lãnh hội được tức là chân thật. Còn nếu không lãnh hội thì đó là ảo hóa.
Nếu mà lãnh hội tức là ảo hóa. Nếu không lãnh hội, đó là chân thật.
Người xưa cũng hướng về các vị thượng tọa nói: ‘Chỉ có ta là biết được’. Trừ điều đó ra thì chẳng có chỗ tính toán.
Này các vị thượng tọa, thành hay không thành từ đâu mà ra. Phải cùng chẳng phải từ đâu mà ra. Lý không sự thì chẳng hiển.
Sự không lý thì chẳng tiêu. Sự lý không hai, không sự không lý. Không lý không sự, chú giải như thế với chư thượng tọa.
Nếu mà cũng chẳng hiểu, thì không chi bằng y theo lời xưa mà thôi.
Người xưa thấy các thượng tọa bách ban chẳng được, cho nên phải rủ lòng hướng các vị mà nói, tương văn trì Phật Phật, sao lại chẳng văn văn.
Không có chuyện gì nữa, tạm biệt!
TS. NGHĨA HUYỀN - viện Lâm Tế
> Như có người tìm cầu Phật, thế là mất Phật. Như có người tìm cầu đạo thế là mất đạo.
Như có người tìm kiếm Tổ sư, thế là mất Tổ sư.
Này đại đức, đừng có nhầm lẫn nhé! Ta không vui mừng ông hiểu kinh luận, không vui mừng ông là quốc vương, đại thần;
không vui mừng ông biện luận trôi chảy như thác đổ, cũng không mừng ông tự thông minh trí tuệ, chỉ cần ông có kiến giải chân chánh.
Này các vị học đạo, giá như có thể giảng thuyết trăm bộ kinh luận, cũng không bằng ông tăng vô sự.
***
> Này các vị học đạo, nếu các vị nghĩ muốn đạt đến kiến giải khế hiệp nghĩa lý, thì cũng đừng để người ta dụ hoặc.
Hướng trong hướng ngoài hễ gặp là giết: gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La-hán giết La-hán, gặp cha mẹ giết cha mẹ,
gặp thân quyến giết thân quyến, mới có thể giải thoát, không câu nệ vật tướng, siêu thoát tự tại.
***
> Này các vị học đạo, Phật pháp chẳng có chi là dụng công cả, chỉ là bình thường vô tâm.
Đi đại, đi tiểu, mặc áo ăn cơm mệt thì nằm ngủ.
Kẻ ngu cười ta, người trí mới hiểu.
Người xưa nói: ‘Hướng bên ngoài cố công phu, đều là kẻ si mê, ngu độn’.
***
> Có một số người học đạo, đến núi Ngũ Đài tìm cầu Bồ-tát Văn Thù. Là nhầm lẫn lắm thay!
Trên núi Ngũ Đài làm gì có Bồ-tát Văn Thù. Các vị định nhận thức Văn Thù phải không?
Chỉ tại đương trung ứng dụng trước mặt các vị mà thôi, trước sau không hề biến dị, nơi nơi chẳng nghi hoặc, đó là Văn Thù sống.
***
> Ba thừa giáo pháp, mười hai bộ kinh đều lấy giấy cũ chùi đồ dơ Phật là thân hư ảo, Tổ sư là lão tăng lữ. Các vị có phải do mẹ sinh ra không?
Các vị định tìm cầu Phật lại bị Phật, ma vồ chụp. Các vị như có điều tìm cầu, đều là chuyện khổ, chẳng bằng vô sự.
Có một loại tăng lữ trọc đầu nói với người học đạo: ‘Phật là chân lý chí cực trải qua vô số kiếp tu hành, công quả tròn đầy mới có thể thành Phật’.
Các vị học đạo ơi, nếu các vị nói Phật là chân lý chí cực thì tại sao Ngài lại nằm chết dưới hai cây Song lâm tại thành Câu Thi La lúc 80 tuổi?
Phật hiện nay ở tại đâu? Hiển nhiên cùng chúng ta một thứ, có sanh là có chết.
***
> Đến như Phật có đủ sáu loại thần thông thì không như thế!
Phật vào sắc giới không bị sắc mê hoặc, vào thanh giới không bị thanh mê hoặc, vào hương giới không bị hương mê hoặc,
vào vị giới không bị vị mê hoặc, vào xúc giới không bị xúc mê hoặc, vào pháp giới không bị pháp mê hoặc.
Vì thế nhận thức 6 loại cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là tướng trạng hư ảo.
Thế thì 6 loại cảnh giới cũng không thể trói buộc bậc đạo nhân không nương tựa vào đâu.
***
> Này các vị học đạo, Phật chân thật không có hình dáng, sự vật chân thật không có tướng trạng.
Các vị tại sự vật hư ảo làm này làm nọ, nếu có đạt được điều gì thì đó cũng chỉ là chồn rừng, lại không phải Phật thật mà là kiến giải của ngoại đạo.
Đến như kẻ học đạo chân chánh thì không tìm cầu Phật, không tìm cầu Bồ-tát, không tìm cầu La-hán, không tìm cầu sự vật tốt đẹp trong tam giới.
Cái gì cũng không có, chỉ tự siêu thoát, không cùng ngoại vật ràng buộc. Dù cho trời đất sụp đổ, tuyệt đối cũng không nghi hoặc.
Dù cho chư Phật mười phương có hiện ra trước mắt, cũng chẳng sanh một niệm vui mừng.
Dù cho tam đồ địa ngục có cùng lúc hiện ra cũng không hề sanh một niệm lo sợ.
Tại sao thế?
Bởi vì chúng ta nhận thức rằng vạn vật đều là tướng hư ảo, biến hóa thấy có, không biến hóa thấy không.
Cái gọi là tam giới cũng từ tâm niệm mà dấy lên muôn ngàn sự vật cũng từ thức biệt mà sanh.
Cho nên ảo ảnh trong mơ, hoa đốm hư không thì hà tất phải lao khổ mà tìm cầu!
***
> Người học đời nay chỉ cần minh thủ chân chánh kiến giải của chính mình là không bị sanh tử nhiễm trước, đi ở tự do,
chẳng cầu bên ngoài mà thù thắng cụ bị đầy đủ.
Như nay đây các vị đạo lưu chỉ cần không trệ ngại nơi hoặc, cần dùng tức dùng.
Như nay đây mà không được như thế là bệnh tại chỗ nào? Tức bệnh tại chỗ không tự tin. Tự tin không kịp.
Thế là ngơ ngơ, ngác ngác trước mọi cảnh thoát.
***
> Này các vị đại đức, nếu mà dừng nghỉ được tâm trì cầu mỗi phút mỗi giây thì cùng với Tổ sư đâu có gì khác biệt.
Các vị có muốn hiểu rõ Tổ sư không. Đó tức là người đang nghe pháp trước mặt ta đấy!
Người học tin không tới bèn hướng bên ngoài trì cầu.
Người được chẳng qua chỉ là cái học văn tự, cùng với các Tổ sư xa lắc, xa lơ. Đừng có nhầm lẫn nhé.
***
> Này các vị đại đức, thời này không ngộ thì muôn kiếp ngàn đời luân hồi trong ba giới, trải bao cảnh xấu tốt, chui vào bụng lừa bò thôi.
Như mọi người hôm nay đây với các vị Thánh hiền ngày xưa có gì khác đâu.
Các vị thiếu kém cái gì chứ? Lục thông thần quang chưa phút giây nào ngưng dứt.
Nếu hay thấy được như thế thì một người trọn đời vô sự.
Một niệm thanh tịnh thì là Pháp thân Phật trong nhà mình vậy.
Một niệm vô phân biệt quang, thì đó là báo thân Phật của mình.
Một niệm vô sai biệt quang, thì đó là hóa thân Phật của mình.
3 thân đó là người nghe pháp trước mắt ta hôm nay đấy.
Do không hướng bên ngoài tìm cầu nên có được ba loại công dụng.
Theo giáo nghĩa ba loại công dụng đó gọi là rốt ráo.
***
> Trong miếng ruộng năm uẩn có một chân nhân vô vị trí, hiển lộ sừng sững, chẳng ngăn cách một tóc tơ nào, sao lại chẳng thức thủ vậy?
Tâm pháp vô hình mà thông quán mười phương, tại mắt gọi là thấy, tại tai gọi là nghe, tại tay nắm bắt, tại chân đi chạy.
Tâm nếu không tại thì tùy xứ giải thoát.
Chỗ thấy của sơn tăng, tọa đoạn báo hóa Phật, thập địa đầy tâm, do như khách tác nhi,
đẳng diệu nhị giác như mang xiềng, đội gông, La Hán, Bích Chi cũng như phân đất, còn Bồ-đề, Niết-bàn như cọc cột lừa ngựa.
Tại sao như thế. Vì không đạt ba kỳ kiếp luống có ngăn cách ấy.
Nếu thật là đạo lưu, thì đều không như thế. Như nay đây vì mọi người sơ lược đại ước phá thoại.
Tự mình nhìn gần xa. Thời giờ qua khá tiếc uổng, mỗi người phải tự nỗ lực. Tạm biệt!
TS. TÙNG THẨM - viện Quan Âm, Triệu Châu
Sư thượng đường nói:
> Tượng Phật bằng vàng không qua nổi lò đốt,
tượng Phật bằng gỗ không qua nổi lửa,
tượng Phật bằng đất không qua nổi nước.
Chỉ có chân Phật là ngồi yên trong các thứ ấy.
> Bồ-đề, Niết-bàn, chân như, Phật tánh đều là quần áo che thân, cũng gọi là phiền não.
Không hỏi han tức không phiền não.
Thế chỗ nào trước được lý thật tế?
> Một tâm không sanh, muôn pháp chẳng hư xấu.
Các vị chỉ cần tham cứu lý trong đôi ba chục năm, nếu không lãnh hội thì chặt đầu lão tăng đi.
> Mộng ảo, hoa đốm trên không, tội gì lao nhọc chụp bắt.
Tâm nếu không sai khác, muôn pháp nhất như.
Nếu đã không từ ngoài mà có thì câu nệ chấp trước mà làm gì.
> Như con dê chẳng hạn, táp loạn xị bất cứ vật gì để tồn vô họng.
Lão tăng từng nghe Hòa thượng nói: ‘Có người hỏi han, liền dạy ngậm miệng lại’.
Lão tăng cũng dạy ngậm miệng lại, giữ cho mình thanh tịnh.
Như con chó săn kia luôn muôn ăn thịt các con vật, Phật pháp ở tại nơi đâu?
> Nơi đây cả ngàn vị đều là những người tìm cầu thành Phật.
Trong đó tìm một đạo nhân cũng không có.
Nếu muốn làm đệ tử của Phật (Không Vương) thì đừng khiến tâm bệnh hết sức khó chữa trị.
Khi chưa có thế gian thì đã sớm có tánh này rồi.
Khi thế giới băng hoại, tánh này không hủy hoại.
Từ khi gặp qua lão tăng rồi thì chẳng còn là người xa lạ mà chỉ là một ông chủ.
Vậy thì còn hướng bên ngoài mà tìm vật để làm gì?
Chính ngay lúc ấy không nên chuyển đầu đổi óc.
Nếu chuyển đầu, đổi óc là mất mát vậy.
***
Sư lại nói :
> Lão tăng 19 năm trước gập Mã đại sư, duới trướng người có hơn 80 vị thiện tri thức, người nào cũng là tác gia.
Họ chẳng giống những người ngày nay thêm cành, thêm dây leo trên các cành cũ, chỉ lìa xa Đạo.
Đời này chẳng bằng đời trước, chỉ như Nam Tuyền tâm bình thường là Đạo, hướng dị loại mà hành.
Vậy ông hiểu thế nào?
Ngày nay những đứa trẻ mồm vàng thuyết pháp ở ngã tư đường nói những lời tầm gửi, kiếm cơm,
kiếm danh tụ tập đuợc 300, 500 người tuyên bố mình là thiện tri thức, còn những người học là những kẻ tìm đường.
***
Sư thượng đường nói :
> Huynh đệ, đừng đứng lâu quá, có chuyện thì bàn luận, không chuyện thì ngồi xuống, hòa vào chân lý.
Lão tăng lúc hành cước, trừ hai buổi cháo, cơm thì đó là lúc dụng tâm, ngoài ra chẳng có lúc dụng tâm nào khác.
Nếu chẳng như vậy, thì đối với hai chữ xuất gia hãy còn xa lắm.
***
Sư lại nói:
> Nếu cả đời ông không lìa nghiệp dâm, năm mười năm chẳng nói, chẳng ai gọi ông là người câm, ngay cả Phật cũng chẳng làm gì được cho ông.
Nếu ông không tin, ông có thể lấy đầu tôi.
***
Sư thượng đường nói:
> Huynh đệ, chúng ta đương bước vào đệ tam thế giới giải oan.
Có câu nói: Chỉ để ý đến hành động chứ không để ý đến người trong quá khứ.
Chúng ta đã tự ly gia và cũng vô sự.
Hơn nữa, chúng ta cũng hỏi về Thiền và về Đạo.
Chúng ta 20 hay 30 người cùng đến hỏi.
Tuy nhiên có vẻ như chúng ta thiếu Thiền và thiếu Đạo.
Mặc dầu ông gọi tôi là bậc thiện tri thức, nhưng lão tăng không nói giỏi sợ liên lụy cổ nhân, cho nên nói Đông, nói Tây.
***
Sư thượng đường và dạy chúng :
> Phật vàng chẳng độ lò, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật bùn chẳng độ nước, chân Phật ở nơi mình.
Bồ Đề, Niết Bàn, Như Lai, Phật tánh chỉ là quần áo để che thân, là lòng bác ái.
Chúng ta tìm thực tại ở đâu?
Tâm chẳng sanh thì vạn pháp chẳng sanh.
Cứ ngồi và quán chuyện này 20, 30 năm nếu ông không hiểu thì cứ chặt đầu tôi đi.
Bỏ sức vào mộng ảo và ảo giác chỉ là phí công.
Không thể tìm ở bên ngoài, vậy phải làm sao? Cũng như con dê, nhai những gì ở trong mồm nhưng không biết chúng phải làm sao?
Khi tôi gập Quy Sơn, thiền sư nói : “Khi có người hỏi tôi, tôi khóa mõm hắn lại.”
Tôi cũng nói : “Câm mõm hòa thượng lại”.
Chấp ngã là sai, không chấp ngã là đúng.
Cũng như một con chó điên chỉ muốn có nhiều đồ ăn.
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật.
Nếu ông không muốn là con của không vương thì đừng sanh tâm.
Khi thế giới này không còn, thì còn thực tại.
Khi thế giới này bị hủy hoại, thì thực tại này không bị phá hủy.
Hãy nhìn tôi, tôi chỉ là tôi.
Chân ngã chỉ đơn giản là vậy.
Ở ngay đây, còn đi tìm ở nơi đâu chứ? Đúng lúc này đừng ngoảnh đầu đi, đừng đổi nét mặt.
Nếu ông làm vậy ông đã hết đời!
TS. TÔNG NHẤT (SƯ BỊ) - ở Huyền Sa
Sư dạy chúng:
- Chư thiền đức! các ông du phương hành khước đến đây, nói rằng ta tham thiền học đạo, là có chỗ kỳ đặc, hay chỉ hỏi đông hỏi tây? Nếu có chỗ kỳ đặc hãy thông qua, tôi sẽ vì các ông chứng minh là phải hay chẳng phải. Tôi trọn biết hết, lại có kỳ đặc chăng? Nếu không có kỳ đặc, chỉ là người đuổi theo tiếng. Các ông đã đến trong đây, giờ đây tôi xin hỏi: các ông là người có mắt chăng? Nếu có thì hiện đây liền nhận biết được, mà các ông có biết được chăng? Nếu các ông chẳng biết, bị tôi gọi kẻ mù từ nhỏ, kẻ điếc từ nhỏ, có phải chăng? chấp nhận lời nói như thế chăng?
Chư thiền đức! cũng chớ tự khi mà lui sụt, cái chân thật của các ông đâu từng là người mù điếc. Chư Phật mười phương nắm các ông để trên đầu, chẳng dám lầm lẫn một phần tử, chỉ nói "việc này duy ta hay biết", hội chăng? Như hiện nay thừa kế, trọn nói là thừa kế Thích-ca. Tôi nói: "Thích-ca cùng tôi đồng tham cứu." Các ông nói tham cứu cái gì? hội chăng? Thật không phải dễ dàng biết, phải là người đại ngộ mới có thể biết được. Nếu cái sở ngộ chừng bực cũng không thể gặp. Các ông lại biết đại ngộ chăng? Không phải là nhận cái chiếu soi trên đầu các ông, không phải cái các ông nói không, nói rỗng, nói bên nây bên kia, nói có pháp thế gian, nói có một cái chẳng phải pháp thế gian.
Hòa thượng con! hư không vẫn từ mê vọng huyễn sanh. Hiện nay nếu đại ngộ thì còn có chỗ nào để nói năng? Còn không có hư không thì chỗ nào có tam giới? nghiệp dẫn, cha mẹ làm duyên sanh ra ta thành lập trước sau? Hiện nay nói không vẫn là lừa dối, huống là nói có. Biết chăng? Các ông đi hành khước đã lâu, tự nói có việc giác ngộ. Nay tôi hỏi ông: ví như chót núi bờ vực chỗ không có dấu vết người, lại có Phật pháp chăng? biện được rành rẽ chăng? Nếu biện chẳng được thật là chưa có.
Tôi thường nói: trước mặt vị Tăng chết tức là chạm mắt Bồ-đề, thần quang muôn dặm là tướng sau đảnh. Nếu người gặp được, chẳng ngại ra ngoài ấm giới, thoát khỏi ý tưởng trên đầu ông, xưa nay chỉ là thể người chân thật của ông. Chỗ nào còn có một pháp khác che đậy? Các ông biết chăng? tin chăng? hiểu thừa đương được chăng? Rất cần nỗ lực!
Sư dạy chúng:
- Nay tôi hỏi các ông đã thừa đương được việc gì? tại thế giới nào an thân lập mạng? biện biệt được chăng? Nếu biện chẳng được in tuồng ấn mắt thấy hoa đốm, thấy việc đã sai, biết chăng? Hiện nay thấy núi sông đồng nội sắc không tối sáng bao nhiêu sự vật đều là tướng hoa đốm cuồng nhọc sanh ra, gọi là tri kiến điên đảo. Phàm người xuất gia phải Thức tâm đạt bản, nên hiệu là Sa-môn. Nay các ông đã cạo tóc đắp y làm tướng Sa-môn, thì phải có phần tự lợi lợi tha. Mà nay xem thấy đầu đen kịt tối tăm như dầu hắc, tự cứu còn chẳng được, làm sao giải cứu cho người.
Nhân giả! nhân duyên Phật pháp là việc lớn, chớ nên thong thả dụm đầu nói bậy nói loạn theo tiếng qua ngày, thì giờ khó được, đáng tiếc, kẻ đại trượng phu sao chẳng tự tỉnh xét, xem là vật gì? Về tông phong từ trước là dòng chư Phật đảnh, các ông đã thừa đương chẳng được. Do đó, tôi phương tiện khuyên các ông nên từ cửa Ca-diếp tiếp tục chóng vượt qua đi. Một cửa này vượt khỏi nhân quả phàm thánh, vượt cả biển thế giới diệu trang nghiêm của Tỳ-lô, vượt luôn cửa phương tiện của đức Thích-ca, thẳng đây vĩnh kiếp chẳng dạy có mộ? vật để ông trông thấy. Sao ông chẳng mau mau tham cứu lấy? Không nên nói "ta hãy đợi hai đời, ba đời, gom chứa tịnh nghiệp lâu xa mới được".
Nhân giả! tông thừa của các ông là việc gì? Không thể do thâm tâm ông dụng công trang nghiêm mà được, không thể do tha tâm túc mạng mà được, hội chăng? Như đức Thích-ca ra đời làm rất nhiều việc, nói mười hai phần giáo, tạo thành một trường Phật sự cho ông. Nhưng, trong cửa này dùng một điểm chẳng được, dùng một đầu sợi lông lượng xét chẳng được. Biết chăng? Như việc trong mộng, cũng như ngủ mớ. Sa-môn chẳng chịu hiện ra là chẳng đồng việc mộng, bởi vì biết được, hiểu chăng? Biết được tức là đại giải thoát, người thấu triệt. Do đó, mà siêu phàm vượt thánh, dứt sanh lìa tử, rời nhân xa quả, siêu Tỳ-lô, vượt Thích-ca, chẳng bị nhân quả phàm thánh lừa, tất cả chỗ không người biết được ông, biết chăng? Chớ hằng mắc trong lưới ái sanh tử, bị nghiệp thiện ác trói buộc lôi đi, không có phần tự do. Dù ông luyện được thân tâm đồng hư không, dù ông được đến chỗ tinh minh lặng lẽ chẳng động, vẫn không ra khỏi thức ấm. Cổ nhân gọi nó "như thác nước". Vì nó chảy nhanh nên chẳng biết vọng, cho là lặng lẽ. Tu hành thế ấy trọn chẳng ra khỏi mé luân hồi, vẫn như trước bị luân chuyển. Cho nên nói "các hạnh vô thường, hẳn là công quả của tam thừa". Như thế, thật đáng sợ. Nếu không có đạo nhãn cũng chẳng được cứu kính. Sao bằng hiện nay là phàm phu chay chẳng dùng một mảy công phu liền được chóng siêu xuất. Hiểu sức tĩnh tâm chăng? Lại mong thích chăng? Khuyên các ông, như tôi hiện giờ đứng thẳng đợi các ông nhìn thấy, chẳng dạy các ông dụng công luyện hạnh. Hiện nay chẳng thế ấy, lại đợi khi nào? lại chấp nhận chăng?
Sư dạy chúng:
- Này các ông! giống như người ngồi trong biển cả nước ngập lút đầu, mà đưa tay hỏi người xin nước uống. Hội chăng? Phàm người học Bát-nhã Bồ-tát phải đại căn khí có đại trí tuệ mới được. Nếu người có trí tuệ thì hiện nay được siêu thoát. Nếu người căn cơ trì độn cần phải siêng năng khổ nhọc nhẫn nại, ngày đêm bỏ ăn quên mệt, giống hệt người đưa đám ma mẹ vậy. Cấp thiết thế ấy đến trọn một đời, lại được người dìu dắt cần phải ghi xương thật cứu, chẳng ngại gì cũng sẽ được gặp. Huống là, hiện nay ai là người kham chịu thọ học?
Nhân giả! chớ có nhớ câu ghi lời, giống hệt người niệm thần chú, cất bước đi đến trong miệng đọc đa đa hòa hòa, bị người nắm đứng hỏi, liền quên mất hết, liền nổi sân nói: Hòa thượng chẳng vì con đáp thoại. Việc học thế ấy là đại khổ, biết chăng?
Có một bọn Hòa thượng ngồi trên giường thiền xưng là thiện tri thức, bị người hỏi liền động thân, động tay, chỉ mắt, le lưỡi, trợn mắt. Lại có một bọn bèn nói: sáng rỡ linh thông trí tánh linh đài hay thấy hay nghe, nhằm trong thửa ruộng thân năm uẩn làm chủ tể. Thiện tri thức! Thế ấy là quá dối người. Biết chăng? Nay tôi hỏi các ông: nếu nhận cái sáng rỡ linh thông ấy là ông chân thật, tại sao khi ngủ mê lại không có sáng rỡ linh thông? Nếu khi ngủ mê chẳng phải, thì tại sao có khi sáng rỡ? Các ông hội chăng? Cái ấy gọi là nhận giặc làm con, là cội gốc sanh tử, duyên khí vọng tưởng. Các ông muốn biết căn do này chăng? tôi nói với ông: cái sáng rỡ linh thông của ông chỉ nhân pháp sắc thanh hương vị? của tiền trần mà có phân biệt, bèn nói đây là sáng rỡ linh thông. Nếu không có tiền trần thì cái sáng rỡ linh thông của ông đồng với lông rùa sừng thỏ.
Nhân giả! Chân thật ở chỗ nào? Nay ông muốn ra khỏi cái chủ tể của thửa ruộng thân năm uẩn, chỉ biết nhận lấy thể kim cang bí mật. Cổ nhân đã nói với các ông "viên thành chánh kiến khắp giáp sa giới". Nay tôi lấy ít phần nói thí dụ, các ông có trí do đó có thể biết: Các ông thấy mặt trời nơi thế giới này chăng? Người thế gian tạo tác sanh hoạt, bao nhiêu việc tâm hành tạo nghiệp đều nhờ ánh sáng mặt trời mà có. Song mặt trời có nhiều thứ đến tâm hành chăng? lại có chỗ chẳng khắp giáp chăng? Muốn biết thể kim cang này cũng như thế. Hiện nay núi sông đất bằng, mười phương cõi nước sắc không sáng tối và thân tâm ông, đều nhờ cái oai quang viên thành của ông mà hiện. Cả thảy trời người các loài quần sanh tạo nghiệp thọ quả báo có tánh không tánh, đều nhờ cái oai quang của ông. Cho đến, chư Phật thành đạo thành quả tiếp vật lợi sanh, đều trọn nhờ cái oai quang của ông. Nhưng thể kim cang lại có phàm phu chư Phật chăng? có tâm hành của ông chăng? Không thể nói không là đúng được. Biết chăng? Ông đã có cái kỳ đặc như thế, bày hiện chỗ xuất thân, sao chẳng phát minh lấy? Lại theo người nhằm trong thửa ruộng thân năm ấm, trong cõi quỉ mà tìm kế sống. Hẳn là tự dối mất vậy. Chợt gặp quỉ vô thường đến, mắt trợn miệng méo thân kiến mạng kiến khi thế ấy thật khó chống chọi được. Giống như lột vỏ con rùa sống, thật khổ!
*
Nhân giả! chớ bám lấy kiến giải ngủ mê, cần phải dẹp đi. Chưa giải che đậy bao nhiêu đầu sợi lông? Ông lại biết chăng? Tam giới không yên ví như nhà lửa, vả lại ông vẫn là người chưa được an ổn, chỉ kết thành đoàn can phạm việc thế nhân, bên này bên kia bay chạy in tuồng con nai rừng chỉ biết tìm ăn tìm mặc. Nếu thế ấy, đâu thể hành vương đạo. Biết chăng? Quốc vương đại thần chẳng bắt buộc ông, cha mẹ cho ông đi xuất gia, mười phương thí chủ cúng dường ông áo mặc cơm ăn, thổ địa long thần ủng hộ ông, cần phải đầy đủ hổ thẹn biết ân mới được. Chớ cô phụ lòng tốt của người. Khi bệnh nằm liệt trên giường, lăn lộn dưới đất, nói là an lạc thì chẳng có, đều là nhờ cơm cháo nuôi dưỡng. Ông đến khi thân hư hoại như trái dưa gang chẳng khác, rồi đem chôn vùi dưới đất, nghiệp thức mờ mờ không chỗ để nương. Sa-môn vì sao lại đến thế ấy? Chỉ vì như côn trùng trên đất, tôi gọi là tạo nghiệp ở trong địa ngục.
Hiện nay nếu chẳng liễu ngộ, sáng sớm hôm nào sẽ thấy vào trong thai lừa bụng ngựa, mang ách kéo cày hàm sắt dây yên, cối đá xay nghiền nước lửa thiêu nấu, thật chẳng dễ dàng, chịu những điều rất kinh sợ. Hoàn toàn tại ông tự tạo khổ lụy, biết chăng?
Nếu là liễu ngộ, liền đó muôn kiếp chẳng từng dạy ông có những dấu hiệu ấy. Nếu chẳng liễu ngộ thì nhân duyên phiền não ác nghiệp này, chưa phải là một kiếp hai kiếp được hết. Hẳn là cùng với cái kim cang của ông đồng tuổi thọ, hiểu chăng?
*
Sư dạy chúng:
- Chân tông cổ Phật thường tùy vật hiện ứng dụng rành rành nơi nơi sáng rỡ, ẩn hiện thản nhiên, thấp cao đều chiếu. Thế nên, Sa-môn Thượng sĩ duy đạo nhãn là trước, hợp bản minh tâm mới là cứu kính. Vạn tượng sum la một thể đồng nguồn, rỗng suốt không ngằn, ai luận có kẹt, việc trong trần kiếp hiện ở trước mắt. Người đời cách xa lâu đời, nên trái với thể thường, quên tâm nhận vật, mà ngược với chân tông, chấp có kẹt không, chẳng gặp thầy lành bạn tốt, chỉ tự nhận hiểu riêng mình. Dù họ có bàn luận, lẫn lộn trong ý so tính. Cho đến, tìm đến chỗ lý tột vẫn không phân biệ? chánh tà. Huống là bình sanh chưa từng mò bắt.
Nếu là bậc cổ đức tiên hiền, khi được biết liền khắc kỷ thật hành công phu, ở am tranh hoặc thất đá trên chót núi. Cổ đức nói: "tình phàm lượng thánh vẫn rơi trong pháp trần, kiến giải của mình chưa quên bèn thành rỉ chảy". Không thể nói: trì trai giữ giới, ngồi mãi chẳng nằm, dừng ý quán không, kềm tâm vào định, là đã đúng. Thế ấy, vẫn không có gì giao thiệp. Vì ngoại đạo ở Ấn Độ nhập định được tám muôn kiếp, lắng thần lặng lẽ, nhắm mắt che tròng, thân bặt trí dứt, sau khi số kiếp mãn vẫn không khỏi luân hồi. Bởi vì đạo nhãn chẳng sáng, nguồn gốc sanh tử không phá vậy.
Phàm là kẻ xuất gia thì chẳng thế, không nên đồng với ngoại đạo. Nếu là người chân thật minh đạt, đủ đại tri kiến, hay cùng chư Phật cùng tột, tịch chiếu quên biết, rỗng trùm vạn tượng. Như hiện nay, chỗ nào chẳng phải là ông? chỗ nào chẳng rõ ràng? chỗ nào chẳng bày hiện? sao chẳng cùng nó hội đi? Nếu khi không có thửa ruộng này thì đâu khỏi các thứ rỉ chảy, thảy thành hư vọng, cái gì là chỗ đắc lực lúc bình sanh?
Nếu ông thật chưa phát minh, cần phải đặt trong thời gian cấp thiết, quên ăn bỏ ngủ, dường như cứu lửa cháy đầu, như thân mạng sắp chết, tâm thầm tự cứu, bỏ hết các duyên rảnh rỗi, đuổi sạch tâm thức, mới có ít phần gần gũi. Nếu không như thế, một hôm nào đó trọn bị thức tình lôi đi, có được phần nào tự do?
*
Sư lo đại pháp khó dạy, ít gặp bậc thượng căn, học giả y lời sanh hiểu, theo chiếu mất tông, bèn dạy ba câu cương tông:
Câu thứ nhất. "Hãy tự đảm nhận, hiện hành đầy đủ, tột mười phương thế giới không có gì khác, chỉ là các ngươi, lại dạy cái gì thấy, cái gì nghe" Toàn là tâm vương của ông làm ra, trọn thành trí bất động. Chỉ thiết đảm nhận, nên mới khai cửa phương tiện, khiến các ngươi tin có một phần chân thường lưu trú. Cùng xưa tột nay chưa có chẳng thị (phải), chưa có chẳng phi (sai). Song câu này thành pháp bình đẳng. Tại sao? Chỉ vì dùng lời để dẹp lời, lấy lý để đuổi lý, bình thường tánh tướng, tiếp vật lợi sanh mà thôi. Chính nơi tông chỉ vẫn còn sáng phía trước tối phía sau, gọi là một vị bình thật, là cái lượng chứng từng phần pháp thân, chưa có câu xuất cách, chết tại câu sau, chưa có phần tự do. Nếu biết cái lượng xuất cách, chẳng bị tâm ma sai khiến, vào trong tay liền chuyển đổi lăn trùng trục dưới đất, nói là thông đại đạo, chẳng rơi vào kiến giải bình thường trong lòng.
Câu thứ hai.- Xoay nhân về quả, chẳng mắc nơi lý bình thường nhất như. Phương tiện gọi là vị chuyển, hợp cơ sanh sát, tự tại buông thâu, tùy nghi vào sanh ra tử, rộng làm lợi ích tất cả, ra khỏi sắc dục và cảnh ái kiến. Phương tiện gọi là Phật tánh đốn siêu tam giới. Đây gọi là hai lý cùng sáng, hai nghĩa đồng chiếu, không bị hai bên làm động, diệu dụng hiện tiền.
Câu thứ ba.- Biết có cái gốc tánh tướng đại trí, kiến giải vượt bực, tối sáng rỗng suốt, thênh thang khắp sa giới, một thể tánh chân thật, đại dụng hiện trước, ứng hóa khôn ngằn, toàn dùng toàn chẳng dùng, toàn sanh toàn chẳng sanh. Phương tiện gọi là cái cửa từ định.
Sư có kệ:
Vạn lý thần quang đảnh hậu tướng
Một đảnh chi thời hà xứ vọng
Sự dĩ thành ý diệc hưu
Thử cá lai tung xúc xứ chu
Trí giả liêu trước tiện đề thủ
Mạc đãi tu du thất khước đầu.
Dịch:
Thần quang muôn dặm tướng sau đảnh
Khi chìm mất đảnh chỗ nào trông
Việc đã thành, ý cũng thôi
Cái ấy lâu nay chạm đến khắp
Người trí nắm được liền đưa lên
Chớ đợi phút giây quên mất đầu.
*
Huyền Sa du cảnh biệt
Thời nhân thiệt tu trì
Tam đông dương khí thạnh
Lục ngoạt giáng sương thì.
Hữu ngữ phi quan thiệt
Vô ngôn thiết yếu từ
Hội ngã tối hậu cú
Xuất thế thiểu nhân tri.
Dịch:
Huyền Sa đường tắt riêng
Người đời cần nên biết
Ba đông khí dương thạnh
Tháng sáu sương xuống nhiều.
Có lời không hệ lưỡi
Không nói rất cần câu
Hiểu ta câu rốt sau
Ra đời ít người biết.
Phó Đại Sĩ (Thiện Huệ)
I
Hữu vật tiên thiên địa
Vô hình bản tịch liêu
Năng vi vạn tượng chủ,
Bất trục tứ thời điêu
*** Dịch:
Có vật trước trời đất
Không hình vốn lặng yên
Hay làm chủ muôn vật
hẳng theo bốn mùa tàn
*** II
Không thủ bả sừ đầu
Bộ hành kỵ thủy ngưu
Nhân tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu
*** Dịch:
Tay không cầm cán cuốc
Đi bộ ngồi lưng trâu
Người đi qua trên cầu
Cầu trôi nước chẳng trôi
*** III
Dạ dạ bão Phật miên
Triêu triêu hoàn cộng khởi
Khởi tọa trấn tương tùng
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Tiêm hào bất tương ly
Nhưng hình ảnh tương tự
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thanh thị
*** Dịch:
Đêm đêm ôm Phật ngủ
Ngày ngày cùng Phật dạy
Ngồi đứng mãi theo nhau
Nói nín đồng chung ở
Mảy may không tách rời
Như hình cùng với bóng
Muốn biết chỗ Phật đi
Chỉ cái nói năng ấy!
TS. THẦN HỘI ở Hà Trạch
Sư dạy chúng:
- Phàm người học đạo phải đạt tột nguồn gốc của mình; hàng Tứ quả Tam hiền đều gọi là điều phục, Bích-chi, La-hán chưa dứt hoài nghi, Đẳng giác, Diệu giác liễu đạt tường tận. Giác có cạn sâu, giáo có đốn tiệm. Tiệm giáo trải kiếp A-tăng-kỳ vẫn còn luân hồi; đốn giáo chỉ khoảng co duỗi cánh tay liền lên Diệu giác. Nếu trước không giống đạo, luống học biết nhiều. Tất cả tại tâm, tà chánh do mình. Không nghĩ một vật tức là tâm mình, không phải chỗ biết của trí. Không có hạnh nào riêng để ngộ vào đây. Pháp Tam-ma-đề chân thật không có đi đến, dứt mé trước sau. Nếu biết vô niệm là Tối thượng thừa, rộng suốt trời xanh chóng mở kho báu. Tâm chẳng phải sanh diệt, tánh bặt đổi dời. Tự tịnh thì niệm cảnh không sanh, vô tác thì vin theo tự dứt.
Ngày xưa, ta đẩy chiếc xe bất thối, nay được định tuệ song tu, như bàn tay với cánh tay. Thấy thể vô niệm chẳng theo vật mà sanh, thường liễu ngộ Như Lai thì còn chỗ nào mà khởi. Nay huyễn chất này nguyên là thường chân, tự tánh như không, xưa nay không tướng. Đã đạt lý này thì còn gì sợ, gì buồn. Trời đất không thể đổi thể kia. Tâm về pháp giới, vạn tượng nhất như. Xa lìa suy tính, trí đồng pháp tánh. Ngàn kinh muôn luận chỉ nói rõ tâm. Đã chẳng lập tâm tức thể hội chân lý, hoàn toàn không sở đắc. Bảo các học chúng không tìm cầu bên ngoài, nếu là Tối thượng thừa cần phải vô tác. Trân trọng!
TS. HY THIÊN ở Nam Tự
Sư bảo:
- Pháp môn của ta do Phật trước truyền trao, không luận thiền định tinh tấn, chỉ đạt Tri kiến Phật, tức tâm tức Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ-đề, phiền não tên tuy khác mà thể vẫn đồng. Các ngươi nên biết, thể tâm linh của mình lìa tánh đoạn và thường, không phải nhơ sạch, lặng lẽ tròn đầy, phàm thánh ngang bằng nhau, ứng dụng không lường, lìa tâm ý thức, ba cõi sáu đường chỉ do tâm mình hiện, như trăng đáy nước, bóng trong gương, đâu có sanh diệt. Các ngươi khéo biết nó thì không gì chẳng đủ.
TS. ÐẠO NHẤT ở Giang Tây
Một hôm Sư dạy chúng:
- Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh Lăng-già nói: 'Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp.' (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua, đâu còn có việc gì.
Các ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: 'Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh Bồ-tát.' Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói pháp môn tăng địa, tại sao nói vô tận đăng? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: 'Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn'. Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như, lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật. Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: Như không chẳng chỗ nương. Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông.
TS. BỔN TỊNH - núi Tư Không ở chùa Vô Tướng
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia.
Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
- Kinh Tịnh Danh nói: 4 đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng.
Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.
...
Bốn đại không chủ cũng như nước
Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
Thông bít chưa từng có hai ý
Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
Ở thế tung hoành nào có việc?
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...".
6 căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.
Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
...
Thấy đạo mới tu đạo
Chẳng thấy lấy gì tu
Tánh đạo như hư không Hư không tu chỗ nào? Khắp xem người tu đạo Vạch lửa tìm bọt nổi Chỉ xem người gỗ máy Ðứt dây một lúc dừng. - Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó. ...
Thể đạo vốn không tu
Chẳng tu tự hiệp đạo
Nếu khởi tâm tu đạo Người này không hiệp đạo
Bỏ mất một tánh chân Lại vào nơi phiền lụy Chợt gặp người tu đạo Bậc nhất chớ hướng đạo. - Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không. - Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không". ...
Xét chân, chân không tướng Tìm vọng, vọng không hình Quán lại tâm tìm xét Biết tâm cũng giả danh Hội đạo cũng như vậy Ðến cùng chỉ lặng yên. - Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói: Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có." ...
Thiện đã từ tâm sanh Ác đâu rời tâm có Thiện ác là duyên ngoài Nơi tâm thật chẳng có Bỏ ác đẩy chỗ nào? Lấy thiện bảo ai giữ? Than ôi! Người thấy hai Bám víu hai đầu chạy. Nếu ngộ vốn không tâm Mới hối lỗi từ trước. ...
Thấy cuộc sống như mộng Trong mộng thật là ồn Chợt giác muôn việc hết Lại đồng tỉnh cơn mộng Người trí nhận biết mộng Kẻ mê tin mộng ồn Biết mộng như hai việc Một ngộ không ngộ khác Giàu sang cùng nghèo hèn Lại cũng không đường khác.