Tiếng Sáo Thép (1 - 10)
- 07 Nov, 2024
Tiếng Sáo Thép (Thiết Địch Đảo Xuy) (1 - 10)
TẮC THỨ 1: VĂN THÙ VÀO CỬA
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Một hôm Bồ-tát Văn Thù đứng ngoài cửa thì đức Phật gọi: "Văn Thù, Văn Thù, sao không vào đi?"
Văn Thù đáp: "Con chẳng thấy vật gì ở ngoài cửa. Tại sao con phải vào?"
BÌNH
Như Huyễn:
Những câu chuyện Thiền là những vấn đề của cuộc sống, chủ đề của thiền định. Không nhất thiết phải là đối thoại giữa Phật và Văn Thù.
Giả sử có ai trong quí vị lưỡng lự không bước vào Thiền đường này, tôi nói: “Sao không vào đi?”
Nếu là người tỉnh giác trong lúc đó, sẽ nói: “Tôi chẳng thấy cái gì ở ngoài cửa. Tại sao tôi phải vào?”
Y chẳng thấy vật gì tách rời Thiền đường; trong và ngoài là những chữ để so sánh.
Nhất thiết y chẳng nghe gì, chẳng thấy gì, chẳng sờ gì, chẳng ngửi gì, chẳng nếm gì, và chẳng nghĩ gì mà chỉ từ tốn đến chỗ của mình ngồi xuống.
Thế thì tôi còn có thể làm gì khác hơn là ca ngợi một người hoàn toàn tự do tự tại như vậy?
Con người vẫn còn trẻ và ngu dại. Thay vì học tính hợp nhất từ các tôn giáo, y học lấy tính nhị nguyên.
Với ảo tưởng của mình, nếu có dịp, y liền dựng lên cái cửa, rồi thấy có vật ở bên ngoài cửa.
Y nghe, ngửi, nếm, sờ và nghĩ theo lập trường vị kỷ. Y nói về bốn biển đều là anh em, nhưng chẳng hiểu nguyên lý của nó.
Thế giới cần Văn Thù mà không cần chúa cứu thế, không cần đấng tiên tri. Văn Thù là ai?
Văn Thù biểu tượng cho trí tuệ Phật. Văn Thù cưỡi sư tử, diệt tất cả mê hoặc, với thanh kiếm bén chém đứt tất cả ràng buộc, vướng mắc ngăn chặn sự giải thoát.
Một số Phật tử nghĩ rằng Văn Thù là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni; một số khác nói về kiếp trước và kiếp này của Văn Thù được phép lạ mật khải.
Hãy để họ nằm mộng thế nào tùy thích. Người học Thiền phải gặp Vằn Thù trong chính mình.
Trong kinh Hoa Nghiêm đề cập đến bốn thế giới: thế giới của sự, thế giới của lý, thế giới hài hòa của sự và lý, và thế giới hài hòa của sự và sự.
Văn Thù trong câu chuyện của chúng ta sống ở bên kia thế giới của sự, trong thế giới của lý nhưng chưa biết làm cho hai thế giới ấy hài hòa.
Phổ Hiền biểu tượng cho từ ái của Phật. Phổ Hiền cưỡi voi, kiên nhẫn xuyên qua các khu rừng già, yêu thương và kính trọng tất cả chúng sinh.
Phổ Hiền không tuyên bố lý do như Văn Thù mà chỉ lặng lẽ đi qua cửa.
Trái tim của Phổ Hiền là trái tim của Phật, ứng đáp tiếng gọi Phật như một tiếng vang.
Thế giới thứ tư của kinh Hoa Nghiêm đôi khi được nói đến như là “Thiên Quốc”
Muốn vào cảnh giới này, người ta phải học sống trong thế giới hài hòa của lý và sự.
Gặp Văn Thù mặt đối mặt trong thời đại của chúng ta rất là quan thiết.
Văn Thù nói, “Con chẳng thấy vật gì ở ngoài cửa. Tại sao con phải vào?”
Bây giờ, cái cửa ấy ở đâu? Quí vị đang trong cửa hay ngoài cửa đây?
⚡️
TẮC THỨ 2: LA SƠN KHAI ĐƯỜNG
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Mân Vương xây một ngôi chùa cho La Sơn và mời sư nói bài pháp đầu tiên trong pháp đường.
Với tư cách là sư của viện, La Sơn lên tòa ngồi nhưng chẳng nói gì trừ hai tiếng “Cáo biệt,” trước khi trở về phòng riêng.
Mân Vương tiến đến bên sư, nói, “Ngay cả những gì Phật dạy trên Thứu sơn cũng đến như hòa thượng hôm nay là cùng.” La Sơn đáp, “Tôi đã nghĩ rằng ngài là khách lạ đối với pháp nhưng bây giờ thì hóa ra ngài cũng có biết Thiền.”
BÌNH
Như Huyễn:
Hai người này sống ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ tám sau Tây lịch, nhưng cả hai sẽ mãi mãi cho thấy cái đẹp của sự bất toàn đối với những ai hiểu sự đánh giá bên trong.
Một ngôi chùa Phật giáo luôn luôn có một tượng Phật trên bàn thờ, nhưng một ngôi chùa Thiền đích thực thì chẳng có tượng gì hết.
Một vị sư đứng vào chỗ của Phật, dùng bàn thờ làm giảng tòa; ông ta mang chiếc y thừa kế từ hế hệ này đến thế hệ khác, đặt nó lên trước khi nói pháp, và lấy nó xuống ngay sau bài pháp.
La Sơn đã làm như vậy. Nguyên ý Hán văn nói, “Sư lên tòa, mặc y vào, cởi y ra và nói ‘Cáo biệt’. Như vậy, bài pháp của sư đã xong.”
Làm hay lắm! Nhưng chớ để các ông tăng ngây thơ của ông bắt chước nhé! Nếu như thế còn tệ hơn là có tượng Phật nữa.
Sự đập phá thánh tượng, mà nó bắt đầu như là một phản ứng bị nhốt trong tháp ngà. Đập nát cái tháp ngà ấy đi mới là đập phá thánh tượng thực sự.
Nếu Mân Vương thuộc hàng cao nhân trong Thiền, ông ta sẽ không tỏ ra thất vọng vì đã để mất bài pháp của La Sơn, dù ông ta hiểu đúng ý chỉ im lặng của sư.
Sự trưởng thành của một thiền viện cũng chậm chạp và vô hình như cây cỏ chung quanh nó.
Sư, tăng và đàn-na tín thí chỉ gieo hạt và không bao giờ thấy được sự hoàn thành đầy đủ.
Tại sao họ không chỉ vui vẻ hiến dâng ngày hôm nay cho thiền định?
Đây là pháp mà La Sơn thừa kế từ Phật truyền xuống qua nhiều thế hệ đệ tử.
Lần đầu tiên khi tôi dời đến căn nhà khiêm tốn này, trong Thiền đường không có ảnh Phật, trong nhà cũng không có bàn ghế gì cả chỉ trừ chiếc ghế để ngồi chơi đàn dương cầm.
Tôi chắp hai tay ngồi im lặng trên chiếc ghế này.
Đó là bài pháp đầu tiên của tôi trong Thiền đường này, và từ đó tất cả những bài pháp khác chỉ là những lời giải thích mà thôi.
Nếu có ai trong quí vị có ý định diễn thuyết hay viết luận giải về Thiền, hãy tự nhắc mình câu chuyện này và hãy sung sướng mà nói, “Cáo biệt” với chính mình.
⚡️
TẮC THỨ 3: NAM TUYỀN PHẬT ĐÁ
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Cư sĩ Lục Cắng nói với hòa thượng Nam Tuyền, “Trong nhà con có một hòn đá hoặc ngồi hoặc nằm. Con có ý muốn chạm thành một vị Phật.
Con làm được chứ?” Nam Tuyền đáp: “Được, ông làm được.” Lục Cắng lại hỏi, “Con không làm được ư?” Nam Tuyền đáp: “Không, ông không làm được.”
BÌNH
Như Huyễn:
Ông cư sĩ này muốn biết khả năng thành Phật của mình. Nếu không thể thành Phật, thì ông ta giống như một hòn đá.
Ông nghĩ thầy ông, Nam Tuyền sẽ ca ngợi ý định tốt của ông.
Tuy nhiên, Nam tuyền chỉ nói, “Được, ông làm được.” Khi Lục Cắng nói: “Con không thể làm được ư?”, ý ông muốn biết chắc chắn và mong Nam Tuyền cho ông sự khẳng định.
Thiền của Nam Tuyền dùng lý tưởng làm cửa vào.
Một người muốn chạm đá làm tượng Phật thì phải tự mình làm lấy, dù người khác có chấp thuận hay không.
Nếu y có chút nghi ngờ về khả năng ấy thì y sẽ không bao giờ làm.
Y bây giờ là kết quả của những gì y đã suy nghĩ và những gì y suy nghĩ bây giờ sẽ hình thành y trong tương lai.
Sư hay không sư cũng không thể can thiệp được luật nhân quả này.
Lục Cắng đã có một hòn đá quí, nhưng quyết tâm của ông không vững cho đến khi bị Nam Tuyền quét sạch.
Giống như câu chuyện xưa về bầy chim sơn ca và anh nông dân.
Chúng không được báo động khi nghe anh nông dân sẽ gặt lúa mì với sự trợ giúp của hàng xóm, nhưng khi chúng biết anh nông nông đã quyết định cắt lúa một mình không có hàng xóm trợ giúp, chúng bỏ tổ bay đi.
Lục Cắng về sau trở thành một môn đệ rất giỏi.
BÌNH
Genro:
Tôi thấy một hòn đá ông cư sĩ ấy đã mang vào viện.
Tôi cũng thấy một hòn đá khác Nam Tuyền đặt trong thiền đường.
Tất cả búa khắp Trung quốc không đập nát được hai hòn đá này.
⚡️
TẮC THỨ 4: BÁCH LINH CHỨNG ĐẮC
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Bách Linh và Cư sĩ Bàng Uẩn cùng học Thiền dưới Đại sư Mã Tổ, người thừa kế Nam Nhạc. Một hôm giữa đường họ gặp nhau.
Bách Linh nói, “Sư ông của chúng ta nói, ‘Nếu nói một vật tức chẳng phải’. Tôi ngờ rằng sư ông không chỉ nó cho ai hết.”
Cư sĩ Bàng Uẩn nói, “Có. Sư ông đã chỉ rồi.” Bách Linh hỏi, “Cho ai vậy?” Cư sĩ lấy ngón tay tự chỉ vào mình, nói, “Cho người này.”
Bách Linh nói, “Sự chứng đắc của ông đẹp và sâu lắm dù cho Văn Thù và Tu Bồ Đề cũng không thể tán thán ông xứng đáng.”
Rồi cư sĩ nói, “Tôi ngờ rằng không có ai biết ý sư ông muốn nói gì.”
Bách Linh không đáp, chỉ đội cái nón rơm lên và bỏ đi.
“Đi cẩn thận,” Cư sĩ Bàng Uẩn gọi, nhưng Bách Linh cứ tiếp tục đi, không quay đầu lại.
BÌNH
Như Huyễn:
Những người học Thiền đều cố gắng nhận ra Phật tánh.
Họ có thể gọi nó là ‘tâm yếu’, Pháp thân, Phật thân hay ‘chơn tánh của một người’, nhưng tên chỉ là cái bóng, không phải vật thật.
Như Nam Nhạc nói, “Nếu nói một vật tức chẳng nhằm.”
Không có gì để nghi ngờ rằng cả ông tăng và cư sĩ đã ngộ Thiền của Nam Nhạc.
Tuy nhiên, vị cư sĩ vẫn còn dấu vết của sự đạt ngộ, còn ông tăng thì hoàn toàn tự do.
Rennyo, trụ trì chùa Bổn Nguyện, hỏi Nhất Hưu, một Thiền sư đương thời, “Tôi nghe nói rằng ông đã ngộ, có đúng vậy không?” Nhất Hưu đáp, “Tôi chưa từng làm chuyện tệ hại như vậy.” Có lẽ bày tỏ cái rạng rỡ của Thiền cho vị trụ trì ấy là vô ích, nhưng nó chứng minh hành động của Bách Linh trong câu chuyện.
Đông phương có câu tục ngữ nói, “Công đâu khoe vàng với mèo.” Không nên nói chuyện Thiền với người ngoài.
Vị cư sĩ trong câu truyện này đã khoe Thiền với bạn đồng học nhưng không có khoe Thiền trong cuộc sống hằng ngày.
Giáo sư Gronbech của trường Đại học Copenhagen tuyên bố: “Các nhà huyền học trong tất cả mọi thời đại nhất thiết diễn đạt những tư tưởng giống nhau; sự thực, giữa họ có sự đồng ý rất nhiều, họ thường dùng cùng một thứ ngôn ngữ và minh họa.
Người ta có thể tìm thấy những đoạn văn đồng nhất của người Ấn độ sống hằng ngàn năm trước niên lịch của chúng ta và của các tu sĩ châu Âu thuộc thời trung cổ sau này.
Ngay cả bây giờ, người thi sĩ hiện đại sáng tạo những ngôn từ đưa dẫn tư tưởng thẳng đến những bản văn thời xưa.
Lý do để họ đồng ý là họ có kinh nghiệm chung mà trong tự thể nó rõ ràng và chính xác như sự quan sát của người bình thường trong thế giới vật chất. Ở đây không có chỗ cho mơ mộng và ảo tưởng.
Nhà huyền học bị kinh nghiệm chế ngự toàn bộ đời sống của ông ta chiếm giữ.”
Công án là vật kỳ lạ. Khi quí vị tham công án, nó sẽ dẫn quí vị đến thế giới của kinh nghiệm.
Càng kinh nghiệm thì cái thoáng thấy Phật tánh của quí vị càng rõ ràng. Khi được cho một công án, quí vị có thể trả lời nó một cách tự nhiên như quí vị nói tên mình.
BÌNH
Genro:
Mây nghỉ ở miệng hang
Suốt ngày chẳng làm gì
Suốt đêm trăng rọi sóng
Chẳng lưu dấu vết chi
⚡️
TẮC THỨ 5: THIỀU SƠN MỘT CÂU
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Một hôm có ông tăng hỏi Thiều Sơn, “Có câu nói nào không không đúng cũng không sai chăng?”
Thiều Sơn đáp, “Một mảng mây trắng chẳng khoe xấu xí.”
BÌNH
Như Huyễn:
Thiều Sơn thừa kế Giáp Sơn. Trong giới chùa chiền, ai cũng biết tính nghiêm khắc của Giáp Sơn nhưng khi vượt qua được sự nghiêm khắc của Giáp Sơn, sư có khả nằng truyền giáo pháp thâm sâu chỉ bằng một chữ hay một câu ngắn.
Ông tăng thực ra đang hỏi, “Tự tại hay giải thoát thực sự là gì?”
Phần đông chúng ta vật lộn với sự vướng mắc vào phải và trái, tốt và xấu, thích và không thích mà Thiền thì siêu việt các ý nghĩ nhị nguyên này.
Tuy nhiên, giây phút một người nói về Thiền của mình thì một cặp quỉ lóe mắt đằng trước y.
Thiều Sơn không đá động gì đến chơn như tuyệt đối hay nhất thể cũng không dùng đến bất cứ đặc ngữ tôn giáo nào.
Sư để dành những cái đó cho những người làm tôn giáo chuyên nghiệp.
BÌNH
Genro:
Không đúng cũng không sai
Một câu cho ông đó
Ba chục năm giữ nó
Chớ cho ai biết nhé
⚡️
TẮC THỨ 6: ĐẦU TỬ THỌ TRAI
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Đầu Tử được một gia đình Phật tử ở kinh đô mời ăn trưa. Chủ nhà đặt một mâm đầy cỏ trước mặt sư.
Đầu Tử đặt hai nắm tay lên trán, giơ hai ngón tay cái lên làm cặp sừng. Rồi sư được người ta đem đến các món ăn thường lệ.
Sau đó một ông tăng yêu cầu Đầu Tử giải thích lý do hành động kỳ lạ của sư. Đầu Tử đáp: “Quan Thế Âm Bồ-tát.”
BÌNH
Như Huyễn:
Không ai biết tại sao người chủ gia đình đãi cỏ Đầu Tử.
Có lẽ vì ở Trung Hoa ngày xưa đôi khi người ta tin rằng một ông tăng không giác ngộ khi chết sẽ đầu thai làm con trâu.
Ngày nay, nhiều tăng nhân Đông phương ngủ và ăn như trâu mà chẳng chịu khó làm việc.
Đầu Tử tự trách mình thay cho đệ tử của sư, vì vậy mà đã xin lỗi thiên hạ bằng cách giả làm con trâu.
Thiền tăng hay khôi hài và thường nhẹ dạ, nhận lấy trò cười và sự chế nhạo chua cay với thiện chí.
Vào lúc Đầu Tử thưởng thức bữa ăn bình thường, sư quên đã quên bẵng chuyện đãi cỏ.
Ông tăng, người yêu cầu Đầu Tử giải thích hành động kỳ lạ của sư, là người góp nhặt những câu dật sử.
Nếu tôi là Đầu Tử, tôi sẽ không trả lời ông tăng. Nhưng Đầu Tử là người rất từ bi nên đáp, “Quan Thế Âm Bồ- tát.”
Trong kinh Pháp Hoa nói Quan Thế Âm thuyết pháp dưới nhiều hình dạng khác nhau.
Một số Phật tử sợ tái sinh, chỉ nghĩ đến bản thân họ và muốn tránh nó, nhưng các vị Bồ-tát Đại thừa dạy là họ hiện ra hàng trăm hàng ngàn thân khác nhau vì hạnh phúc mỗi ngày trong tuần của chúng sinh.
⚡️
TẮC THỨ 7: VÂN MÔN TIỆC Ở MIẾU THẦN
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Một hôm khi Vân Môn nói pháp với tăng chúng, sư hỏi, “Các ông có muốn làm quen với các Tổ, sư xưa không?”
Trước khi có người trả lời, sư cầm gậy chỉ tăng chúng nói, “Chư Tổ xưa đang nhảy trên đầu các ông đó.”
Rồi sư hỏi, “Các ông có muốn thấy mắt của các sư xưa không?”
Sư chỉ xuống đất dưới chân tăng chúng và tự đáp, “Họ ở ngay dưới gót chân các ông đó.”
Sau khi dừng lại một chút sư nói như là nói với chính mình, “Tôi đã làm tiệc ở miếu thần nhưng mấy ông thần đói chẳng thoả mãn.”
BÌNH
Như Huyễn:
Thật là một đoạn văn xuôi kiệt tác trong thiên hạ! Câu hỏi của Vân Môn có thể áp dụng cho những người ở châu Âu và châu Mỹ hiện nay cũng như ở Trung Hoa trong mấy thế kỷ qua.
Bất cứ kẻ giả mạo nào nhắc đến sự tái sinh của các nhà sư đã trở thành rất phổ biến đến độ làm y trở thành giàu.
Chỉ một mình quốc gia này thôi cũng đã có hàng ngàn người hàng ngày đang bị bọn phỉnh gạt, khuyến khích những sản phẩm tưởng tượng điên cuồng vô lý nhất lừa đảo.
Nhưng việc này không thể đến độ như vậy, nếu không phải là một số người tin vào tôn giáo, nghiên cứu một triết lý, không thỏa mãn với bữa tiệc có thực.
Họ giống như những ngẫu tượng trong miếu thờ thần của Trung quốc; mùi hương giác ngộ bồng bềnh chung quanh mà họ không có mũi để ngửi.
Sách trong thư viện, kinh trong chùa, hàng trăm và hàng ngàn, đang toi công đãi bữa tiệc chân thực cho những ngẫu tượng có máu thịt!
Rốt cuộc Vân Môn đã phí lời trong bài pháp vĩ đại của sư.
BÌNH
Genro:
Trên đầu chỉ có một bầu trời xanh. Các Tổ, sư xưa ở đâu? Dưới chân chỉ có một quả đất lành.
Mắt của các Tổ,sư xưa ở đâu? Bữa tiệc của Vân Môn chỉ là cái bóng, đâu có gì lạ, các vị thần không thể thỏa mãn cái đói của họ.
Các ông muốn biết tôi làm tiệc ở miếu thần như thế nào không? Tôi đóng cửa lại, nằm dài xuống sàn nhà, sải tay duỗi chân ra, ngủ một giấc.
Tại sao? Bởi vì có câu nói, “Tách đầy đến miệng không chứa thêm trà. Đất tốt chẳng từng sinh người đói.”
⚡️
TẮC THỨ 8: VÂN CƯ CHỈ DẠY
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Vân Cư là Thiền sư Trung Hoa thuộc phái Tào Động, có nhiều đệ tử.
Một ông tăng từ nước Tân La đến nói với sư, “Con đã thấy ra cái gì đó ở bên trong mà không thể nói được.”
Vân Cư hỏi, “Tại sao vậy? Chẳng có gì khó cả.”
Ông tăng đáp, “Vậy thì hòa thượng phải nói giùm con đi.”
Vân Cư nói, “Tân la! Tân la!” và kết thúc cuộc đối thoại.
Sau đó, một Thiền sư thuộc phái Hoàng Long phê bình câu chuyện:
“Vân Cư chẳng hiểu được ông tăng gì cả. Giữa họ có cái biển lớn, dù cho họ cùng sống trong một ngôi chùa”.
BÌNH
Như Huyễn:
Vân Cư sống ở phía nam Trung hoa vào những năm sau của thế kỷ thứ chín sau Tây lịch.
Ông tăng Triều tiên ấy đã vượt Hoàng hải và có lẽ cả Biển Đông Trung Hoa nữa để đến với Vân Cư.
Nhiệt tâm của ông tăng này đã vượt đa số các ông tăng hành cước.
Tôi có thể hình dung ra ông tăng ngày đêm ngồi thiền.
Cho đến cuối cùng, ông ta đã vào chánh định và khám pha ra chân ngã của mình tựa như chợt tỉnh cơn mộng.
Ngôn ngữ nhân gian không lời tả được ông đã được cái gì.
Thích Tông Diễn đã có lần nói, “Thiền định chẳng phải là chuyện khó làm.
Nó là con đường đưa ông về quê hương đã mất tích từ lâu”.
Vân Cư đã có kinh nghiệm riêng, vì thế sư tuyên bố rằng chẳng có gì khó khi diễn tả cái gì người ta đạt được.
Ông tăng thì còn trong cơn xúc động mạnh vì ngộ, vì thế ông yêu cầu thầy nói ra giúp ông ta.
Sư nói, “Tân la! Tân la!” để mừng ông trên đường trở về nhà.
Tôi thâm cảm tình huynh đệ của sư, nhưng phải nói rằng sư đã không diễn đạt điều ông tăng muốn.
Sư nên đợi ông tăng vài phút và để cho ông tăng tự nói.
Dù vậy, một câu tán thán cũng không phải là lời miêu tả sự đạt ngộ
Như Đại sư Nam Nhạc nói, “Nếu nói một vật tức chẳng trúng”.
Ông tăng đã yêu cầu một điều tuyệt đối không thể được.
BÌNH
Genro:
Ông tăng phái Hoàng Long đã không hiểu được Vân Cư. Giữa họ có một hòn núi lớn, dù họ là những người đồng thời.
Mở miệng có gì khó
Tả vật có khó gì
Tăng từ Tân la đến
Chẳng phải tăng lang thang
Chưa về được quê xưa
⚡️
TẮC THỨ 9: TỪ MINH ĐẠI Ý
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Thúy Nham nghĩ mình đã đạt được Thiền, rời chùa của Từ Minh đi hành cước khắp cả Trung hoa lúc sư còn là một ông tăng trẻ.
Mấy năm sau, sư trở lại viếng chùa xưa.
Thầy cũ của sư bảo, “Hãy nói tôi nghe đại ý Phật pháp”.
Thúy Nham đáp,
“Đỉnh núi không mây tụ
Trăng sáng rơi đáy hồ”
Từ Minh tức giận nhìn người đệ tử già của mình, “Ông đã già rồi, tóc bạc, răng long mà còn kiến giải như thế. Làm sao thoát được sanh tử?”
Thúy Nham cúi đầu, nước mắt ràng rụa. Sau vài phút, sư thỉnh cầu, “Xin hòa thượng từ bi nói cho con nghe đại ý Phật pháp”.
Từ Minh đáp,
“Đỉnh núi không mây tụ
Trăng sáng rơi đáy hồ”.
Từ Minh chưa nói hết câu, Thúy Nham đã ngộ.
BÌNH
Như Huyễn:
Không ngừng suy nghĩ rằng thực tại chơn như ở bên kia trí tưởng tượng, Thúy Nham đã tự lừa mình trong những năm vọng tưởng.
Khi đi hành cước, chắc chắn sư đã nói tự do thoải mái về Phật pháp, vay mượn lời của những người khác, và cuối cùng đã cố vượt qua sự giả trá ấy với thầy.
Chính những lời đó không có gì sai khi nói ra, nhưng chúng không âm vang từ đáy lòng.
Khi Từ Minh tức giận trách mắng, thì trái tim của Thúy Nham lần đầu tiên đảo lộn từ trong ra ngoài, sư thấy cái xấu xí của mình.
Hổ thẹn cúi đầu thỉnh cầu thầy nói cho đại ý Phật pháp.
Câu đáp là,
“Đỉnh núi không mây tụ
Trăng sáng rơi đáy hồ”
Nó không phải chỉ là sự miêu tả cảnh đẹp, nó là ý chỉ chơn chánh của Phật pháp.
Nếu người nghe không nhận ra chân lý vào phút giây như thế, Thiền chỉ là thứ vô dụng trên thế gian.
BÌNH
Genro:
Thúy Nham đã biết cách lái thuyền xuôi theo dòng, nhưng chưa từng mộng thấy cơn bão đòi hỏi sư phải đi ngược dòng.
Ống bễ thổi cao ngọn lửa rèn
Kiếm từng được búa nện trên đe
Cũng cùng là thép ban đầu ấy
Nhưng lưỡi giờ đây khác biết bao!
⚡️
TẮC THỨ 10: DƯỢC SƠN NẮM GIỮ
CÔNG ÁN (CỬ / TẮC)
Quan tri phủ hỏi Dược Sơn:
“Tôi hiểu rằng tất cả Phật tử phải có Giới, Định và Tuệ. Thầy có giữ giới không? Thầy có tu định không? Thầy có đạt tuệ không?”
Dược Sơn đáp:
“Bần tăng không có những thứ rác rến như thế quanh đây.”
Quan tri phủ nói:
“Thầy ắt có pháp thâm sâu, nhưng tôi chẳng hiểu pháp ấy.”
Dược Sơn tiếp:
“Nếu muốn nắm giữ nó, ngài phải leo lên ngọn núi cao nhất và ngồi trên chóp đỉnh hoặc phải lặn xuống biển sâu nhất và bước đi nơi đáy nó. Vào giường riêng để ngủ mà tâm trĩu nặng, làm sao ngài có thể nắm giữ được Thiền của tôi?”
BÌNH
Như Huyễn:
# Khi một người giữ giới luật, y có thể thiền định tốt; khi sự thiền định thành thục, y có thể đạt trí tuệ.
Vì 3 cái này (iới, Định và Tuệ) tương quan và thiết yếu như nhau, không một cái nào trong 3 cái này có thể thực hiện riêng rẽ như một cái học độc lập.
Nhưng ông quan tri phủ đang cố gắng hiểu pháp như ông ta hiểu một cuộc khảo hạch nhiệm vụ công dân.
Chính ông ta đã có đám người thường được tuyển chọn có thể khiếm khuyết một phẩm chất nào đó, miễn là họ mạnh về một phẩm chất khác.
Những câu ông ta hỏi Dược Sơn thực ngu ngốc làm sao.
Nếu một ông tăng khiếm khuyết về giữ giới, thì ông ta không thể hoàn thành thiền định được. Nếu không hoàn thành được thiền định, thì ông ta chẳng bao giờ đạt được chân trí tuệ. Ông ta không thể chuyên tu một cái nào trong ba cái này.
Ngày nay, có những người học Phật viết sách mà không bao giờ tu thiền định hay sống cuộc sống đạo đức và những “sư” Thiền thiếu nhiều đạo hạnh giản dị hơn.
Dù cho có cạo đầu, mặc áo vàng và tụng kinh, họ cũng không bao giờ biết chân nghĩa của Pháp. Quí vị có thể làm gì với những kẻ bắt chước này? Ông quan tri phủ không thể hiểu Thiền vách đứng của Dược Sơn, nhưng ông ta chấp nhận nó. Dược Sơn thấy có hy vọng và đã chỉ dạy cho ông ta vài điểm.# Nào! Quí vị nói nó như thế nào đây?
BÌNH
Genro:
Dược Sơn dùng núi và biển làm minh họa. Nếu các ông bám vào đỉnh núi hay đáy biển là các ông tạo ra mê hoặc.
Làm sao các ông có thể hiểu “nó” trên đỉnh hay dưới đáy? Đỉnh cao nhất không có chóp để các ông ngồi, đáy sâu nhất không có chỗ cho các ông đặt chân.
Dù cho lời này không diễn đạt chân lý. Thì các ông làm gì? Sư quay lại tăng chúng. Hãy ra vườn làm việc hay đi chặt củi vậy.
BÌNH
Fugai:
Thôi! Thôi! Đừng cố lôi con mèo không muốn đi qua tấm thảm nữa. Nó sẽ làm rách thảm và sự việc trở nên tệ hơn.
⚡️