Type something to search...
Koan 1

Koan 1

  • 13 Sep, 2024

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI BẢY

KIM CƯƠNG KINH KHINH TIỆN

THÙY Niệm một bỏ một, chưa phải chuyên gia. Cử một hiểu ba, vẫn trái tông chỉ. Dù được trời đất đột biến, bốn phương tuyệt xướng, sấm rền điện chớp, mây bay mưa rào, nghiêng hồ lật núi, bình tháo chậu đổ, vẫn chưa đề lên được một nửa. Còn có ai biết xoay thiên quan chuyển địa trục chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ Kinh Kim Cương nói, “ Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trước có tội chướng đáng bị đọa vào ác đạo, song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.”

BÌNH Kinh Kim Cương nói, “ Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trước có tội chướng đáng bị đọa vào ác đạo , song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.” Theo lời giải thích bình thường thì đây là đề tài thường luận trong Kinh. Tuyết Đậu nêu lên để tụng ý nghĩa của đoạn kinh này, vì muốn đả phá lối giải thích lầm lạc của các nhà giáo tông. Chiêu Minh Thái Tử [1]nêu đoạn này lên cho rằng nó có công hiệu tiêu trừ nghiệp chướng.

Trong giáo tông đại ý nói rằng Kinh này linh nghiệm như vậy: một người kiếp trước tạo nghiệp địa ngục, song nhờ sức mạnh của nghiệp tốt chưa phải chịu. Do kiếp này bị người khác khinh rẽ, các tôi nghiệp của kiếp trước vì thế mà được tiêu trừ cả. Kinh này do đó có thể tiêu trừ ác nghiệp của vô lượng kiếp, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành bất thụ, lại còn dẫn người ta đến chỗ đắc Phật quả Bồ Đề nữa.

Theo các nhà giáo tông thì lật hơn hai mươi chương Kinh bèn gọi là trì Kinh , nói như thế thì có gì là nhằm nhò? Có kẻ nói Kinh tự có linh nghiệm. Nếu thế, các ông thử lấy một quyển kinh rồi để đại một chỗ nào đó xem có cảm ứng gì không? Pháp Nhãn nói, “ Chứng Phật địa mới gọi là trì kinh.” Trong Kinh có nói rằng, “ Tất cả chư Phật và A Nậu Đa La Tam Miêu Tam Bồ Đề[2] của chư Phật đều phát xuất từ Kinh này.” Song thử nói xem gọi là “ kinh này” là gì vậy? Phải chăng chỉ là giấy vàng trên trục đỏ? Đừng nên nhận lầm điểm giữa cán cân.

Kim Cương được coi là Pháp thể kiên cố, bởi vì không vật gì có thể hủy hoại nó được, nó lại sắc bén có thể cắt được bất cứ vật gì. Đặt nó lên núi thì núi sập; đặt nó vào biển thì biển cạn. Cho nên lấy đó làm tên kinh, Pháp của kinh cũng thế.

Bát nhã[3] có ba loại: thứ nhất , thực tướng Bát Nhã; thứ nhì, quán chiếu Bát nhã; thứ ba, văn tự Bát Nhã. Thực tướng Bát Nhã là chân trí, chính là một đại sự ngay dưới chân các ông, sáng rực kim cổ, siêu việt tri kiến, tự tại thánh thoát. Chiếu kiến Bát nhã là chân kinh, suốt hăm bốn giờ một ngày chiếu sáng và rung chuyển mặt đất, nghe âm thanh và thấy hình sắc. Văn tự bát nhã tức là văn tự để diễn giả, tức là người nói và người nghe hiện giờ đây. Thử nói xem, đó là Bát nhã hay không phải là Bát nhã? Cổ nhân nói, “ Mọi người đều có một quyển kinh.” Lại nói, “ Tay không cầm quyển kinh, song luôn luôn lật kinh ấy.”

Nếu như dựa vào cái linh nghiệm của Kinh nầy, tại sao lại ngưng nói chuyển nặng thành nhẹ chuyển nhẹ thành bất thụ? Cho dù có ngang được với những bậc thánh đi nữa, cũng đã có gì là kỳ đặc? Há không nghe Bàng Cư Sĩ nghe giảng Kinh Kim Cương, hỏi vị tòa chủ, “ kẻ tục nhân này có một câu hỏi nhỏ, không hiểu có được không?” Tòa chủ nói, “Ông có điều gì nghi ngờ thì cứ việc hỏi.” Bàng Cư Sĩ nói, “ Vô ngã tướng vô nhân tướng, đã vô ngã tướng vô nhân tướng thì ai thuyết ai nghe đây?” Tòa chủ không trả lời được mà chỉ nói,” Tôi chỉ dựa vào văn tự để giải nghĩa thôi chứ không hiểu ý của câu đó.” Bàng Cư Sĩ bèn làm bài tụng rằng, “ Vô ngã và vô nhân, làm sao có sơ thân? Khuyên ngài đứng giảng giải, sao bằng tìm chân thật? Kim Cương Bát Nhã tính, bên ngoài không bụi trần. Tôi nghe tôi tin nhận, chỉ là giả danh thôi.” Bài tụng này tuyệt hết sức, trong một lúc đã nói rõ cả ra.

Khuê Phong giảng tứ cú kệ, “ Phàm sở hữu tướng đều là hư vọng, nếu thấy tướng không phải là tướng tức là thấy Như Lai.” Tứ cú kệ này ý nghĩa hoàn toàn giống với ý nghĩa của câu, “ Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Kinh cũng nói rằng, “ Nếu lấy sắc để thấy ta lấy âm thanh để nghe ta, người ấy hành tà đạo, không thấy được Như Lai.” Đây cũng là một tứ cú kệ, song ở đây chỉ trích ra những câu mà ý nghĩa vẹn toàn thôi. Có ông tăng hỏi Hối Đường, “ Tứ cú kệ là gì?” Hối Đường nói, “ Chỉ nói mà không hiểu.”

Tuyết Đậu dựa vào kinh mà chỉ ra. Nếu như có người trì kinh này, thì đó là bổn địa phong quang của mọi người, bổn lai diện mục; Song nếu các ông dựa vào Tổ lệnh mà hành sự thì bổn địa phong quang và bổn lai diện mục lập tức bị cắt thành ba đoạn. Mười hai phần giáo của tam thế chư Phật chẳng đáng gì cả. Đến chỗ này rồi thì dù có thập vạn công năng đi nữa cũng chẳng đảm đương nổi. Người thời buổi này chỉ biết lật kinh mà chẳng hiểu ý nghĩa gì cả. Chỉ biết nói, “ Một ngày tôi lật được bao nhiêu.” Họ chỉ biết nhìn thấy giấy vàng trục đỏ, theo hàng đếm mực. Đâu có biết rằng tất cả chỉ từ nơi tâm mình khởi lên mà thôi, đây cùng lắm chỉ là chút chuyển xứ mà thôi.

Đại Châu Hòa Thượng nói, “ Chất hàng đống kinh trong phòng không thử xem có phóng quang hay không.” Chỉ cái tâm mình trong một niệm phát lên, đó chính là công đức. Tại sao vậy? Bởi vì vạn pháp đều từ nơi tâm mình phát sinh. Một niệm là linh, đã linh tức thông; thông rồi bèn biến. Cổ nhân nói, “ Tre trúc xanh xanh, đều là chân như, hoa vàng tươi tắn, đều là Bát nhã.” Nếu như các ông nhìn thấu triệt được thì là chân như; còn nếu như chưa nhìn thấu được, thử nói xem, các ông gọi gì là chân như đây? Kinh Hoa Nghiêm nói, “ Nếu như muốn liễu tri tam thế nhất thiết Phật, phải biết rằng tất cả pháp giới tính chỉ là tâm đạo mà thôi.” Nếu như các ông hiểu được thì bất cứ trong cảnh ngộ nào nhân duyên nào đều là chủ là tông cả. Nếu như chưa thấy rõ được,nên lắng nghe phân xử. Tuyết Đậu tụng để giải minh cái linh nghiệm của kinh.

TỤNG

Ngọc sáng trong tay,

Có công được thưởng.

Hồ Hán không đến,

Toàn vô kỹ lưỡng.

Đã không kỹ lưỡng,

Ba tuần lạc đường.

Cồ Đàm, Cồ Đàm!

Biết tôi hay không?

Lại nói, “ Khám phá ra rồi.”

BÌNH “ Ngọc sáng trong tay, có công được thưởng.” Nếu như có người trì kinh này một cách công nghiệm, ắt sẽ được thưởng viên ngọc. Người ấy được ngọc này, tự nhiên sẽ biết sử dụng. Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện, vạn tượng sâm la, tung hoành hiển hiện. Đó chính là có công huân. Pháp Nhãn nói, “ Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Hai câu đó là tụng hết công án rồi.

“Hồ Hán không đến, toàn vô kỹ lưỡng.” Tuyết Đậu xoay quanh lỗ mũi. Có Hồ Hán đến thì mới hiện lên, lúc cả Hồ lẫn Hán đều không đến thì như thế nào? Đến chỗ này thì Phật nhãn cũng chẳng nhìn thấy được. Thử nói xem, đó là công trạng hay là tội nghiệp? Là Hồ hay là Hán? Giống như Linh dương mang sừng, đừng nói là không âm thanh, tung tích, ngay cả một hơi thở cũng không có, biết đi về phương nào mà tìm kiếm đây? Đã đến chỗ mà chư thiên không có lối để rải hoa, ngoại mà không có cổng để nhòm ngó. Cho nên Động Sơn hòa thượng trụ viện cả đời, thổ địa thần tìm tung tích của thầy ta mà chẳng thấy. Một hôm có người đánh vãi bột gạo trong bếp, Động Sơn khởi tâm nói, “ Tại sao ông dám coi nhẹ tài vật của đại chúng như thế?” Thổ địa thần bèn trông thấy thầy ta, bèn lễ lậy.

Tuyết Đậu nói, “Đã không kỹ lưỡng;” Nếu như các ông đạt đến chỗ vô kỹ lưỡng ( khả năng) này thì ngay cả ( Ma) ba tuần cũng bị lạc đường. Thế Tôn xem tất cả chúng sinh như con đỏ, nếu như một người phát tâm tu hành, cung điện của Ba Tuần vì thế mà sụp đổ, cho nên Ba Tuần bèn đến mà não hại người tu hành. Tuyết Đậu nói dù cho Ba Tuần đến như thế đi nữa, cũng vẫn bị lạc đường như thường và không có cách chi để đến gần được.

Tuyết Đậu lại nói, “ Cồ Đàm, Cồ Đàm! Biết tôi hay không?” Đừng có nói là Ba Tuần, dù cho là Phật đến đi nữa cũng có biết tôi hay không? Ngay cả Đức Thích Ca cũng còn chẳng thấy, các ông biết rờ rẫm ở đâu đây? Lại nói, “ Khám phá ra rồi.” Đó là Tuyết Đậu khám phá Cồ Đàm hay là Cồ Đàm khám phá Tuyết Đậu? Những ai có mắt xin thử nhìn cho chắc xem!

Tags :
Share :

Related Posts