Chapter List
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 27
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 28
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 30
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 31
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 32
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 33
- CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 34
QUYỂN 1
NGỮ LỤC CỦA THIỀN SƯ THANH VIỄN HIỆU PHẬT NHÃN Ở LONG MÔN, THƯ CHÂU Pháp tự Thiện Ngộ, ở Vân Cư, Nam Khang biên soạn
CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 27
Sư thượng đường:

Tăng hỏi
Vào cửa Đức Sơn liền bị đánh, vào cửa Lâm tế liền bị hét. Chưa biết Sư tiếp người ra sao?

Sư nói
Chẳng hao chẳng thiếu

Tăng hỏi
Lại khi thế ấy đi thì sao?

Sư nói
Bậc nhất chẳng được đóa căn.
⚜️⚜️⚜️
Sư thượng đường:

Tăng hỏi
Kiếp hỏa tràn lan, cõi đại thiên đều bị hoại, chưa biết cái ấy có bị hoại hay không?

Sư đáp
Trong thùng sơn đen toàn màu vàng.

Tăng hỏi
Xin Sư đáp thoại.

Sư đáp
Lời nói rỗng.
⚜️⚜️⚜️

Tăng hỏi
Thuở xưa, Tôn giả Bạt Đà hỏi Đại sư Pháp Chiếu, chưa biết so với nay là đồng hay khác.

Sư đáp
Xưa đó, nay đó.

Tăng hỏi
Lão nhân Tài Tòng khó được truyền bát, Lão Lư nhỏ bé vào Lãnh Nam.

Sư hỏi
Ông thử nêu người xưa xem?

Tăng đáp
Kho bếp ba cửa, lầu chuông điện Phật.

Sư đáp
Thế ấy lại làm sao được?

Tăng hỏi
Bỗng gặp người bảy tay tám chân đến thì thế nào?

Sư đáp
Cắt đứt cẳng chân đem một câu lại.

Tăng hỏi
Hôm qua có người từ Thư Châu đi.

Sư đáp
Cũng là kẻ xa xôi lại.
⚜️⚜️⚜️

Sư thượng đường, hỏi
Đạo xa thay! Chạm việc mà chân. Thế nào là đạo?

Tăng đáp
Trên đảnh 8 thước 5.

Sư đáp
Vuông tròn 7, 8 tấc.

Tăng hỏi
Một đường hướng thượng còn cho hội chăng?

Sư đáp
Chẳng bàn hướng thượng hay hướng hạ để cho ông hội.

Tăng đáp
Thế ấy thì ngay đây xuất sanh, tùy theo chỗ diệt.

Sư hỏi
Bao nhiêu người lầm hội thế ấy?

Tăng đáp
Bậc tông sư tác gia, thiên nhiên đã có.

Tăng liền lễ bái
🙇

Sư nói
Chưa từng cùng thượng tọa đi chung.
⚜️⚜️⚜️
Sư thượng đường:

Tăng hỏi
Đạo ở chỗ miệng biếng mở. Khi thơ thành từ, gật đầu thì thế nào?

Sư gật đầu vài cái, nói
Ngày nay ngộ được vậy. Chớ mở miệng loạn.
⚜️⚜️⚜️
Sư thượng đường:

Tăng hỏi
Khi đại dụng hiện tiền, chẳng còn phép tắc thì thế nào?

Sư nói
Ai tin ông?

Tăng liền hét
🗣

Sư nói
Hãy tiến lên một bước xem?

Tăng hỏi
May là có một cung ba mũi tên, đương cơ phải bắn chẳng bình người.

Sư đáp
Năm thiếu từng quyết trận rồng rắn, mưa tới lại cùng chim trĩ ca.

Tăng lại hét
🗣

Sư nói
Hóa ra chỉ là Dã hồ tinh.

Tăng lễ bái
🙇

Sư nói
Đâu từng đại dụng hiện tiền.
⚜️⚜️⚜️
Sư thượng đường:

Tăng hỏi
Người xưa nói: “Chư Phật chẳng ra đời, nói pháp 49 năm. Chư Phật đã chăng ra đời vì sao nói pháp 49 năm?”

Sư nói
Ông nghĩ là bao lâu?

Tăng hỏi
Tổ sư chẳng từ Tây sang, Thiếu Lâm có diệu quyết. Tổ sư đã chẳng Tây sang, vì sao Thiếu Lâm có diệu quyết.

Sư nói
Người biết ơn thì ít, kẻ vong ơn thì nhiều.

Tăng hỏi
Thế ấy thì một người truyền rỗng, nhiều người truyền thật.

Sư nói
Chỗ rỗng làm sao truyền?

Tăng hỏi
Mặc từ đâu biến đổi, trọn chẳng làm y thông.

Sư nói
Lễ bái đi.
⚜️⚜️⚜️
Chánh Hòa năm thứ 8, tháng 9, phụng sắc trụ ở Hòa Châu, Bao Thiền. Sư thượng đường, tạ ơn xong:

Tăng hỏi
Ngàn dặm xa nghe tin tức tốt, chẳng bước lên đường việc thế nào?

Sư nói
Chẳng dính ba tấc.

Tăng hỏi
Một vầng nhật nguyệt ngay không soi, muôn dặm gió lành vũ trụ rộng.

Sư nói
Lại có thương lượng

Tăng hỏi
Trên đường gặp được thiền nhân hỏi thì thế nào?

Sư nói
Có gì khó đáp? Mây lìa cửa hang, ngàn núi đẹp. Trăng đến giữa trời, bốn biển sáng. Ai là người thế ấy?
⚜️⚜️⚜️
Sư thượng đường nói:

Sư thượng đường, nói
Đức vua đã ban cho giang sơn, bề tôi giỏi nên làm theo lệnh vua, khiến cho bần đạo truyền pháp, trụ trì. Trong chúng lại có ai đứng ra gánh vác trách nhiệm chăng? Thử ra khỏi chúng nói xem?

Tăng ra hỏi
Trên đường gặp được thiền nhân hỏi thì thế nào?

Sư nói
Ông là tâm hạnh gì?

Tăng hỏi
Đáng gọi là tay cầm phù Dạ Minh, chừng nào biết trời sáng?

Sư nói
Từng hỏi mấy người rồi? Đếm trong y bao nhiêu người lầm hội? Xà lê lại thế nào? Ba mươi năm sau có người hội đi. So sánh chút ít.

Tăng hỏi
Khi một trần vừa dấy, cả đại địa gồm thâu, thì thế nào?

Sư nói
Hai trần vậy.

Tăng hỏi
Thế ấy thì cảnh giới vô biên, tự tha chẳng cách một mảy lông; xưa nay mười đời, trước sau chẳng lìa ngay nơi niệm?

Sư nói
Gồm việc trong sơn huyện, làm sao thấy được?

Tăng hỏi
Núi sông và đại địa, toàn bày thân pháp vương.

Sư nói
Cái ấy xà lê lại thích thương lượng.
⚜️⚜️⚜️
Mồng Một tháng Chạp, Sư thượng đường.

Tăng ra hỏi
Muôn pháp là ánh sáng tâm, các duyên do tánh mà hiểu rõ. Thảy đại địa là sắc, cái nào là tâm?

Sư nói
Chẳng nên làm mù lão Tăng. Thảy đại địa là sắc, cái nào là tâm? Xà-Lê nghĩ đến chừng bao nhiêu lúc? Chỉ như hai chữ sắc và tâm làm sao thấu qua được? Chỉ như qua sông, ai dè ướt lưng. Kia đây không tiện nghi. Cùng mặc tình ăn uống.

Sư lại nói
🌳 Một năm chỉ có ngày Ba Mươi này, tháng Hai Dương phát sanh. Người học Bát nhã cùng đạo tình của ông tương ưng chăng? Nay có hai câu hỏi, hỏi mọi người: một câu hỏi người chấp nhận, một câu hỏi người chẳng chấp nhận. Trước hỏi người chấp nhận rằng: Ông đến như thế khi nào vậy? Ông phải nói nhiều lúc. 🌳 Hỏi ông đã nhiều lúc thì đối với hai thinh, sắc ở trước mắt và ông làm não hại chăng? Nếu cùng ông làm não hại, thì thượng tọa chưa có như thế. Nếu chẳng cùng ông làm não hại ấy là soi thấy rõ, về sau chẳng làm não hại hay chẳng cần soi thấy rõ mới thấy chẳng bị não hại, tức gọi là soi thấy tâm. Chưa gọi thế ấy. Nếu chẳng dùng soi thấy tâm, làm sao biết được không não hại? Dựa chỗ thấy rõ này ta hỏi chẳng được. Kế là hỏi người chẳng chấp nhận rằng: Ông chẳng đến thế ấy được khi nào?

Sư cười to, nói
Hay cho một câu hỏi! Ông xuất gia làm Sa môn, đệ tử Phật đầy tuổi đủ tóc, vòi vọi rõ ràng. Làm sao lại chẳng thể ấy? Được khác gì với người đời? Dù cho ông ngay đây chẳng thế ấy đi nữa, thì cũng do thế ấy. Về sau có cái không thế ấy. Dựa vào cái thấy này cũng rõ, ta hỏi chẳng được. Chẳng thấy Đại sư Thạch Đầu nói: Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy cũng chẳng được. Còn có người nói chẳng được, bị Mã Đại sư nói: Ta có lúc giương mày chớp mắt, có lúc chẳng giương mày chớp mắt. Có lúc giương mày chớp mắt là phải, có lúc giương mày chớp mắt là chẳng phải.

Sư im lặng giây lâu, nói
Lại biết chăng? Bùn nhiều Phật lớn. Nước lớn thuyền cao. Xuống tòa.
NÓI THAY
Một hôm, Sư hỏi thị giả:

Sư hỏi thị giả
Trong ba người, người nào chẳng ở trong số đó?

Sư nói thay
Hòa thượng nói chẳng dính dáng.

Sư lại nói
Con chỉ được câm miệng.

Sư lại nói
Hổ thẹn! Lại bị hòa thượng biết.
⚜️⚜️⚜️
Nhân cánh tay có bệnh.

Sư dạy chúng
Một cánh tay trái của ta, vì các ông bảo ta cử động chẳng được, vì các ông bảo ta chịu khổ đau vô cùng.

Sư nói thay
Hòa thượng phải biện giải như thế này ra sao?

Sư lại nói
Chẳng dám cô phụ một cánh tay trái của Hòa thượng.

Sư lại nói
Học nhân nghe được chẳng đặng an vui.

Sư lại nói
Đây là Hòa thượng cướp con, chỉ e là con chẳng đến cái ruộng đất ấy.
⚜️⚜️⚜️

Sư cử
Cổ nhân nói: Chót núi vượn bay, ông hãy xem. Còn ông thì sao?

Sư nói thay
Thế thì chẳng đi vậy.

Sư hỏi
Vì sao chẳng đi?

Sư nói thay
Chỉ cái ấy chính là “chót núi vượn bay”.
⚜️⚜️⚜️

Sư hỏi
Đầu núi Dữu Lãnh giở chẳng lên, là sao?

Sư nói thay
Ông lại hội được rồi.

Sư lại nói
Ông vừa mới đến mặc áo cà sa phải không? Y cứ theo đó mà kết án.

Sư lại nói
Theo dáng vẽ hồ lô.
Nghe lầu sách mở cửa

Sư nói
Không gió tự động mở, đáng cho ăn ba mươi hèo.
⚜️⚜️⚜️

Sư cử
Mạch mối chẳng thông bị cát chặn, đạo nhãn chẳng thông bị cái gì chặn? Cổ nhân nói: “Bị con mắt chặn”. Chỉ như con mắt làm sao chặn?

Sư nói thay
Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.

Sư hỏi tăng
Nhiều khi ông ở chỗ nào để an thân lập mạng?

Sư nói thay
Ít người biết.
⚜️⚜️⚜️

Sư hỏi
Nam Tuyển dắt trâu đi tuần đường là thế nào?

Sư nói thay
Ông lúc bình thường đi Đông đi Tây, là có đạo lý Phật pháp hay không đạo lý Phật pháp?

Sư lại nói
Lầm đi lối này.
⚜️⚜️⚜️

Sư hỏi
Tịnh Bình Cao Ly vì sao ở trong ấy?

Sư nói thay
Chẳng phải chỉ ở trong ấy.
⚜️⚜️⚜️

Sư cử
Bàng cư sĩ hỏi Mã Đại Sư: Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Sư nói thay
Con đã đáp cho Hòa Thượng rồi.
⚜️⚜️⚜️
Một hôm, nghe tiếng trà bảng lại nghe tiếng dục cổ (đánh trống tới giờ tắm).

Sư hỏi tăng
Đến chỗ nào là phải?

Sư nói thay
Khi nghe tuy khắp đó, nhưng chẳng ngại chỗ ứng thành khắp. Chỗ ứng tuy khắp, chẳng ngại khi nghe thường khắp.

Sư hỏi tăng
Như gương đúc thành tượng, thì ánh sáng của gương đi về đâu?

Sư nói thay
Lão tăng xuất gia ba mươi năm.

Sư hỏi
Khi đèn côi riêng chiếu thì thế nào?

Sư nói thay
Cột trụ chứng minh.

Sư hỏi
Thế nào là chỗ ông thọ thai?

Sư nói thay
Chỗ nào Hòa thượng đi?

Sư hỏi
Khi niệm niệm phan duyên, tâm tâm hằng lặng thì thế nào?

Sư nói thay
Lại còn việc gì?

Sư hỏi
Ta cùng lão già Thích Ca đồng tham, lão già Thích Ca đủ ba mươi hai tướng tốt, thế nào là nói việc đồng tham?

Sư nói thay
Chớ đến làm dơ tại mắt ta.

Sư hỏi
Từ lâu nghe tiếng của ngàn Phật, đến đây vì sao một Phật cũng chẳng thấy?

Sư nói thay
Đã thấy ngàn Phật.

Sư hỏi
Chỗ thức tình chẳng đến thì thế nào?

Sư nói thay
Đại trùng xem thủy ma.

Sư hỏi
Chỗ thức tình chẳng đến, lại nghe tiếng mưa chăng?

Sư nói thay
Sẽ vì con rơi vào trong thức tình của người khác.

Sư hỏi
Người đại an lạc lại thấy có xuân, hạ, thu, đông chăng?

Sư nói thay
Nếu chẳng thế ấy, đâu gọi là người đại an lạc

Sư hỏi
Hàng nạp tăng làm sao thương lượng?

Sư nói thay
Lúc lạnh nói lạnh, lúc nóng nói nóng.

Sư hỏi
Thế nào là ruộng đất của người xưa?

Sư nói thay
Há có khác ư?

Sư hỏi
Kẻ túi cơm là sao?

Sư nói thay
Đương nói đó.
⚜️⚜️⚜️
Nhân dạo ngọn núi Bạch Liên, đến nửa chừng núi Sư dừng chân.

Tăng ở phía sau tới hỏi
Hòa thượng còn ở trong ấy?

Sư nói
Ta đến đây rồi vậy.
Tăng không đáp được.

Sư nói thay
Cũng là chuông sau giờ trai.

Lữ Thiếu Bằng vào thất hỏi
Hòa thượng có nêu lời dạy gì chăng?

Sư nói
Nếu có lời dạy, tức là đã chôn chân rồi.

Lữ Thiếu Bằng lại hỏi
Xin Hòa thượng chỉ dạy vắn tắt, thẳng thắng

Sư nói
Rất quanh co.

Sư hỏi
Có một vật, trên chống trời, dưới chở đất, đen như sơn, thường ở trong động dụng, trong động dụng thâu chẳng được, lỗi ở chỗ nào?

Sư nói thay
Có lỗi gì?

Sư bảo vị tăng rằng
Ta đã vì ông dốc hết sức lực. Thế nào là dốc sức?

Sư nói thay
Sáng sớm ăn cháo, giờ trai ăn cơm.

Sư hỏi
Người hội Phật pháp vì sao lại bệnh?

Sư nói thay
Cũng biết Hòa thượng tâm tha thiết.

Sư rút một que nhiều lửa ở trong lò, nói
Ý này thế nào?

Sư nói thay
Trên cửa đánh mắc một mũi tên kim cang.

Sư lại nói thay
Chích vào tròng mắt ông, xuyên qua tim gan ông.

Sư lại nói thay
Chớ hướng trong hư không mà đóng cọc.

Sư hỏi
Có một đồ nhi, trên thân thường xuất ra hương sữa xá lợi, ý này thế nào?

Sư nói thay
E người chẳng tin.

Sư lại hỏi
Đồ nhi khác vì sao lại không?

Sư nói thay
Y được đại xiển đề.

Sư hỏi
Hư không lại có đổi khác không?

Sư nói thay
Xanh vàng đỏ trắng, lớn nhỏ, dài ngắn.

Sư dựng phất tử, hỏi tăng
Từ chỗ nào được đây?

Sư nói thay
Cũng chỉ là trong mộng của con.

Tăng hỏi
Hòa thượng vì sao được ngộ?

Sư nói
Chớ dán bít cái thấy của ta, mà vẽ thỏ cắn nhau.

Sư nói thay
Cắn chết vậy.

Sư lại nói
Ta cũng biết ông gần gũi.

Sư dạy chúng
Người hội Phật pháp chẳng được ăn cơm Long Môn. Người chẳng hội Phật pháp cũng chẳng được ăn cơm Long Môn. Người thảy chẳng thế ấy cũng chẳng được ăn cơm Long Môn. Hãy nói người nào được ăn?

Sư nói thay
Người không tàm quý

Sư lại nói
Giống như cái ta được ăn.

Sư có lần dạo núi,hỏi tăng
“Trúc dày chẳng ngại nước chảy qua” là sao?.

Sư nói thay
Chẳng cho đi đêm, sáng sớm phải đến.

Sư hỏi tăng
Con chó hỏi vì sao không đuôi?

Sư nói thay
Đã bị Hòa thượng nói rồi.

Sư lại nói
Được ngay thế ấy.

Sư nhân Tăng hỏi bệnh, nói
Thân ta ở trong ấy, vì sao tâm chẳng ở trong ấy.

Sư nói thay
Thân ở trong ấy, ông còn nghi cái gì?

Sư lại nói
Kịp hợp suông qua một đời

Sư hỏi
Tăng mất rồi đi về đâu?

Sư nói thay
Ông hỏi ta

Sư lại nói
Lãnh sâu một câu hỏi của Hòa thượng.

Sư Cử
Cổ Đức một hôm chẳng lên trai đường. Thị giả bạch rằng: “Thỉnh Hòa thượng lên trai đường”. Cổ Đức nói: “Ta hôm nay đã ăn bánh dầu ở trang trại rồi”. Thị giả nói: “Hòa thượng chẳng từng ra vào, vì sao lại nói đã ăn bánh dầu ở trang trại rồi?”. Cổ Đức nói: “Ông hãy đi hỏi lấy trang chủ”. Thị giả vừa ra, trang chủ về tạ ơn Hòa thượng ăn bánh dầu trong trang trại.

Sư nói thay
Sự thật như thế.

Nghe tiếng chuột kêu, thị giả hỏi
Cổ nhân nói: “Tức vật này, chẳng vật khác”. Ý chỉ thế nào?

Sư nói
Cái lão này chẳng biết tốt xấu, nói cho người cái gì?

Sư lại nói
Ông lúc bình thường nói nhăng nói cuội trong liêu xá, lại có kiết hung chăng?

Sư hỏi
Con của đồ tể Quảng Ngạch trong tay có con dao đồ tể làm sao buông xuống?

Sư nói thay
Chẳng cần buông.

Sư hỏi
Trước mặt là gì?

Sư nói thay
Không vật.

Sư hỏi
Lục Tổ chẳng biết chữ, vì sao để trên đá đeo lưng rằng: “Long Sóc Nhị Niên Lão Lư Ký” (Long Sóc năm thứ hai, lão Lư ghi)?

Sư nói thay
Càng phải chín chắn.

Sư hỏi thị giả
Ông cúng dường lão Tăng thế ấy, lão Tăng đem cái gì đền đáp cho ông?

Sư nói thay
Tạ ơn Hòa thượng đền đáp.

Sư nhân xem trăng, hỏi thị giả
Một nửa kia ở đâu?
- Sư đáp thay bằng cách lấy tay chỉ trăng.
Hỏi:

Sư nói
Chúng sanh trên quả đất làm sao độ được?

Sư nói thay
Có chỗ độ.

Tăng hỏi
Hòa thượng độ thế nào?

Sư nói thay
Chớ quản đến y?

Sư nói
Sau giờ trai thiêu ông, ông làm sao?

Sư nói thay
Việc chẳng có gì?

Tăng lại nói
Chẳng phải chỉ có con.

Sư lại nói
Hiểu sâu câu hỏi này.

Sư bảo tăng thị giả
Ta lúc bình thường nói cho ông, lại thành tội lỗi.

Sư nói thay
Cũng biết Hòa thượng cẩn thận.
Mã Thiếu Bằng đến Bao Thiền gặp Sư, Sư lúc bình thường lấy 6 con xúc sắc dạy thiền nhân, liền đem ba con bảo thị giả đưa cho Thiếu Bằng:

Sư truyền lời
“Đây là cái lão tăng bình sanh dùng chẳng hết”.

Thiếu Bằng tiếp lấy rồi nhờ đáp lại lời
Tạ ơn Hòa thượng gặp, chỉ được một nửa.

Sư lại bảo thị giả truyền lời
Một nửa để giữ cho lão tăng.
Sư một hôm đến trước tháp Bảo Công,

Sư chợt nói
Pháp sư ưa mây sáng, đặt sừng ở trên đầu (Vân quang hảo pháp sư, an giác đại đầu thượng). Đã là pháp sư Vân Quang, vì sao đặt sừng ở trên đầu?

Sư nói thay
Cách hẻm chớ cưỡi ngựa sắc vàng, quay lại đụng nhằm rách áo sam.
Sư ngồi ở phương trượng, thấy tăng đến, Sư nói: Nhập thất chưa đến phiên ông đâu nhé.
Sư nói thay: Thế ấy thì con cúi mong kính cẩn thối lui.
Có lần nhân lúc Sư uống thuốc, hỏi tăng: Trong hông ngực vừa rồi như có một vật, hãy nói là vật gì?
Sư nói thay: Phế khí (hơi trong buồng phổi).
Lại nói: Còn có cái ấy nhé.
Lại nói: Cái ấy là gì?
Rồi bước đi nhanh.
Sư gọi vị tăng: Mở hàng phố rồi vậy, kẻ bán người mua.
Tăng nói: Trà ngon.
Sư nói: Hàng rẻ tự thân.
Sư hỏi tăng: Khi ông bỗng nhiên chết đi, thì thế nào?
Tăng không đáp được, Sư cười to ha hả.
Tăng hỏi: Thế nào là việc khi triệu chứng chưa sanh?
Sư đáp: Sao ông chẳng hỏi sớm?
Một hôm Sư bảo vị tăng: Đỡ chẳng nổi, dù khiến một muôn người đỡ cũng chẳng nổi.
Im lặng hồi lâu, Sư nói: Chỉ có một người đỡ nổi
Tăng hỏi: Chưa biết là người nào?
Sư đáp: Người vô lực.
Sư hỏi tăng: Cái lồng đèn ở đâu đến?
Sư nói thay: Nghiêm ở trước mắt.
Tăng hỏi: Khi bỗng gặp hùm sói, đao kiếm thì thế nào?
Sư nói thay: Là đao kiếm hùm sói.
Sư hỏi tăng: Con về sau thế nào?
Sư đáp thay: Cũng như hôm nay.
Sư hỏi tăng: Người từ duyên được, hằng không lui sụt. Trong ấy thấy được tự kỷ, cũng là oan gia, lại hội chăng?
Tăng thưa: Khi tự kỷ cũng chẳng thấy thì thế nào?
Sư nói: Khi ấy bảo ai nói?
Tăng nói thay: Mạnh Xuân vẫn còn đông.
Sư cử: Tăng hỏi Tuyết Phong: “Khi biết có việc hướng thượng mới có phần nói thoại là sao?”. Tuyết Phong nắm tay vị tăng đưa lên nói: “Là sao?”. Tăng không đáp được.
Sư nói thay: Người dẫn được lão Hòa thượng đến ruộng đất thế ấy.
Cử: Tăng hỏi Pháp Đăng: “Đầu sào trăm trượng làm sao tiến bước?”. Pháp Đăng đáp: “Á!”.
Sư hỏi tăng: Hạ được lời gì?
Sư nói thay: Đất bằng thần tiên.
Cử: Dược Sơn Bảo Sa di Cao: “Ta nghe nói Trường An náo động”. Cao đáp: “Nước con an ổn”.
Sư hỏi Tăng: Thế nào là nước con?
Sư nói thay: Bốn năm trăm hoa liễu cuộn, hai ba ngàn lầu Quản Huyền.
Ngũ Tổ lão Hòa thượng thường xòe tay hỏi người: Sao gọi là tay?
Sư nói thay: Gạt con quá nhiều.
CHỈ TÂM YẾU CHO NGƯỜI TU THIỀN
Không nên ở trong chỗ rỗng không, không bờ mé mà lập phần hạn, nếu lập phần hạn tức là cái rỗng không, không bờ mé bèn bị rơi kẹt. Vì thế người hiểu không chẳng có tướng không. Nếu dùng ngôn ngữ diễn tả tâm, trọn chẳng được tâm, chẳng dùng ngôn ngữ diễn tả tâm cũng chẳng được tâm. Vì ngôn ngữ vốn là tâm nên diễn tả nó vẫn chẳng được, không ngôn ngữ cũng vốn là tâm, diễn tả nó vẫn chẳng được. Các thứ hội đến đều không khế hợp với tự tâm.
Thượng Tổ bảo: “Thầm khế hội mà thôi”, nếu như nơi đây mà chưa đạt đạo thì chỉ không vọng niệm là được. Nếu người biết là vọng niệm, tác ý dừng nó là vì do thấy có vọng niệm. Người biết có vọng niệm, tác ý liền quan sát khiến thấy chánh lý, cũng là do thấy có vọng niệm. Biết vọng nguyên là đạo mới không vọng. Cho nên người đạt đạo không sở đắc. Chỉ không cầu gì khác, biết không mê vọng gọi đó là thấy đạo.
Chỗ tầm thường nhật dụng như khi thấy sắc là lúc chứng, khi nghe tiếng là lúc chứng. Khi uống nước, ăn cháo là lúc chứng, mỗi mỗi đều bặt năng sở. Đây chẳng phải tập lâu, chẳng nhờ huấn luyện mà được.
Người học đạo biết rõ có việc này, vì sao không được yếu chỉ mà thường nghi? Chẳng biết phản chiếu như thế, bèn mê loạn không biết manh mối. Giữa đường đang gặp khó khăn, mỗi việc mà hay tự phản tỉnh, lại không có người thứ hai. Đã nói là việc này thì đâu lại có biết. Biết là vọng sự thì việc này cũng chẳng mất.
Đạo chẳng bởi nói với chỉ rồi sau mới hiểu, bởi vì thế nó tự thường bày. Nói chỉ là phương tiện của đạo. Người dùng nó để tỉnh ngộ cũng là lối tẻ tạm thời thôi. Hoặc nhơn nói mà chứng, nhơn chỉ mà nhập, tự chạm biết để trở về, trọn đường có việc khác. Đến tận nguồn tâm là dừng.
Có người nói: Ngộ rồi mới tu. Đây thuộc về môn đối trị. Tuy nhiên thiền môn cũng cho dùng chánh tri kiến để trị nó. Nếu luận người đương thời tức chẳng phải như thế. Phải nói Phật đạo dài lâu, hàng chịu siêng năng khổ nhọc mới có thể được thành. Dài suốt ba đời phàm thánh, nên nói: “Phật đạo dài lâu”. Chẳng khởi thấy khác, chưa từng trái bỏ. Nên nói hằng chịu siêng năng khổ nhọc. Tột cùng không có pháp khác, nên nói: “Mới có thể được thành”. Đây là việc của đại trượng phu.
Người không biết đi hỏi, liền y nơi đó mà đáp. Chẳng biết bèn tự hỏi thì ông muốn đáp cho ai? Người không biết đáp, liền y lời nói khởi kiến giải. chẳng biết bèn tự đáp thì ông có chỉ thú gì? Cho nên nói: “Thảy là ông, khéo xem, khéo xem”.
Hoặc có người bảo: Từ trước có thánh Phật, Tổ bày ngôn giáo, lưu bố thế gian mỗi mỗi phân minh, cớ sao đều nói là tự mình, đâu không phụ lòng từ bi của Thượng Tổ, chư Thánh nhọc nhằn dạy bảo.
Tôi thuận theo tông thú của Phật Tổ, chính ông phụ lòng từ bi của chư Thánh trước, chứ tôi đâu có phụ. Tại sao? Nếu có sở thuyết tức là chê bai Phật Tổ, ông chớ nên làm người rốt sau đoạn hạt giống Phật. Nếu chẳng đến nơi mình biết trở về thì việc làm đều thành hư ngụy. Dù ông nhớ được như hà sa, hiểu được như trầm mặc nơi mình nào có ích gì? Cho nên nói: Đem cái nghe nhớ lại Phật, sao chẳng nghe lại tánh nghe, cầu Phật có tướng ở bên ngoài cũng đâu có dính dáng gì? Có vị tôn túc bảo: “Nay ta đáp ông một câu cũng chẳng thấy khó, nếu ông ngay một câu mà tiến được vẫn còn đôi phần so sánh, nếu ông chẳng hội Lão tăng trở thành vọng rồi”.
Học giả thời nay đua nhau lấy hỏi đáp làm quan yếu trong Thiền Tông, chẳng biết tâm là thủ xả khởi tưởng. Than ôi! Cái học đến lý, đến sự đều là lời nói của những người gần đây, dù có chút ít nhận hiểu cũng chưa được thôi dứt. Đâu chẳng nghe nói: Đạo Niết Bàn dứt bặt nghĩ lường. Phải biết thẳng thắn tự hiểu mới được.
Người do mê tâm nên tìm đạo, bèn lạc đến núi rừng cầu gặp thiện tri thức, cho là riêng có cái Đạo có thể khiến người được an lạc. Họ không biết nghiên cứu trở lại, nhằm chỗ mê hạ thủ công phu là tối đệ nhất. Nếu không đến được chỗ mê này, dù vào núi rừng không trở lại cũng uổng công mà thôi. Chỗ mê cũng rất dễ nói mà khó vào. Cho nên Tiên Đức nói: “Khó tin khó hiểu”. Lại bảo: “Đây là nói Đạo của Tông đốn”. Nói phản chiếu vốn là lời tẩu tác, huống là chẳng như thế. Người đời sau bèn dùng lời trên làm bình thường vô sự một vị chân thật. Đây là chỗ không rõ của kẻ hậu học, ăn mặc mà chẳng xét.
Từ trước đến đây có hai thứ phương tiện:
- Chân thật phương thiện nói không hở cách.
- Thiện xảo phương tiện: khéo ứng dụng hợp các Căn cơ.
Nếu từ chân thật phương tiện được vào là chẳng nhờ suy nghĩ, tánh tự thầm giải, hằng không có lui sụt, hiệu dụng như hằng sa. Nếu từ thiện xảo phương tiện được vào thì được an nhiên ngồi mặc áo, về sau tự xem xét mới biết chỗ được chưa đủ mà cho là cứu cánh. Hai thứ phương tiện này đều là một pháp, không thể có mất trong chốc lát, người học phải khéo xét đó.
Ngài Tuyết Phong chỉ dạy người: “Chớ bảo Lão tăng có một câu đến trên phần của ông thì kham dùng làm gì?”. Đây là cổ nhân bất đắc dĩ mà thôi. Người sau không hiểu ý cổ nhân bèn cho rằng trên phần của chính mình không có các thứ nói bàn, đây là hiểu lầm rồi.
Người thời nay phần nhiều đem việc xem xét trước mắt cho là cực tắc. Sở dĩ ngài Huyền Sa nói với mọi người: “Chỗ núi đâu vắng bặt không người, Đạo của ông lại có chăng”. Ngộ tâm thấy tánh phải như Tuyết Phong, Huyền Sa; đáp trên đất thật phải như Nam Tuyền, Triệu Châu mới được.
Học giả thời nay chỉ lấy phương tiện của cổ nhân làm thiền (tức tâm) làm đạo, không thể cùng cổ nhân đồng tham. Vì như người mạng gánh nặng 120 cân, đi qua cây cầu khỉ mà chẳng run, chẳng nghiêng. Do sức gì phù trì mà được như thế? Bởi kia tinh thần không tạp mà thôi, kẻ vì đạo cũng phải như vậy. Trong kinh nói: “Ví như con sư tử chụp voi cũng toàn lực, chụp thỏ cũng toàn lực”. Có người hỏi: “Toàn lực là gì?”. Đáp: “Toàn lực chẳng dối”, nếu thấy một mảy lông khác nơi tâm thì tự tán thân mất mạng. Cho nên người đạt Đạo không có cái gì là chẳng phải? Lực này rất lớn, chỉ vì vô biên ác giác xâm lấn khiến nên lực tác dụng có kém. Nếu không có nhiều thứ phép khác, trạng khác, duyên khác, niệm khác, thì tuỳ tâm chuyển biến, tự tại vô ngại.
Đạo chẳng cần khổ cầu, cầu đó liền mất đạo. Sự không cần nhọc nhằn tiêu dung, tiêu dung thì sự có, chẳng cầu chẳng tiêu dung là đạo cùng sự hội, thì sự nào mà chẳng phải đạo. Ví như kẻ có mắt sáng vào trong kho báu mà không biết phương tiện là không có đèn đuốc soi sáng, vào trong liền bị u đầu, sẩy tay. Như thế gọi là hang độc chớ chẳng phải kho báu. Người trí vào kho cầm theo đèn đuốc soi sáng, thấy các thứ báu mặc tình lượm lấy, lượm báu xong di ra.
Người tu trong 12 giờ phải dùng trí tuệ sáng, chớ để sáu trần đụng chạm đến mình. Thuở xưa Thượng toạ Vĩnh cùng Từ Minh đồng từ giã Phần Dương mà Vĩnh chưa tột chỗ diệu kia. Vĩnh theo Từ Minh 20 năm, trọn chưa được an lạc.
Một hôm ngồi quanh lò lửa, đêm khuya, Từ Minh lấy đũa gắp than, gõ trên than gọi: Thủ tọa Vĩnh
Thủ tọa Vĩnh bèn quát: Dã thồ tinh!
Từ Minh: Kẻ khờ! Lại phải thế ấy đi.
Vĩnh do phương tiện này được cứu cánh, song vẫn bảo theo nhau. Từ Minh ở đâu thường ra thưa hỏi. Những câu từ Từ Minh hỏi chúng không đối được, Vĩnh tới, Từ Minh liền gật đầu hứa khả, đây gọi là liều thuốc không bệnh. Học giả đương thời khó nhận được yếu chỉ kia huống là bọn tri kiến hội giải, ở đời sau, do đâu nhận lãnh được việc ấy? Được đó phải như Vĩnh, cho thuốc phải như Từ Minh thì mới nên vậy.
Ở chỗ ồn ào được lặng thì chợ xóm biến thành núi rừng, phiền não thành bồ đề, chúng sanh thành chánh giác. Câu nói này người mới học đạo đều nói được, hiểu được. Đến khi thực hiện bình đẳng và buông xả, mà thấy phàm thánh cũng là hai như xưa, lặng và động cũng là dụng khác. Thế càng biết rõ là giải hội cần phải có chỗ an ổn mới được một vị, không nên gắng hội.
Gần đây phần nhiều lấy vấn đáp làm gia phong thiền gia, chẳng rõ việc người xưa, một bề chạy theo ngọn ngành không biết trở lại, thật là quái lạ.
Người xưa vì mê mà hỏi, chỗ hỏi cầu chứng nhập, được một lời nửa câu đem làm việc nghiên cứu phát minh, khiến thấu triệt, không có giống như người thời nay hỏi loạn, chụp lấy câu đáp rồi cười đùa.
Kẻ đạt giả trong 12 giờ học đạo không có một khoảnh khắc buông xả, người nay dù chưa được vào mà mỗi niệm là tu hành. Tâm thường nói tu hành chẳng qua ba nghiệp, sáu căn thanh tịnh.
Thiền môn không thể như thế, vì sao? Vì môn thiền định niệm niệm cùng trí ba la mật bình đẳng, tất cả chỗ tự không có lỗi lầm, hằng lâu bỗng có ngày tâm địa thông minh, từ trước thảy được đầy đủ, gọi là nhất hạnh tam muội. Người thời nay toàn là sức định, lại chẳng mở con mắt trí tuệ, có những cơ duyên ngữ cú chỉ thành tranh luận, tâm hành sanh diệt.
Thiền học chẳng phải việc nhỏ bé, chưa có cái dụng siêu việt, siêu Phật việt Tổ được, rồi còn siêu cũng chẳng khó. Cao Bôn Tôn thừa vụ biên thư hỏi tôi: “Chẳng rời ý tưởng, chẳng ở có không, thế nào là phải?”. Tôi tự đáp: Nếu hỏi thế nào là chẳng phải hỏi thế nào cũng chẳng phải. Khách say khiến tĩnh thì thần châu tự săn đủ, đâu có thể dự tính làm rồi sau mới nhận. Người lanh lợi bậc nhất, tâm thảo chẳng đến một niệm mà khéo được thấy, thấy đó tức phải, không riêng có lối tẻ. Bọn tầm thường cho niệm trước là phải, lấy niệm sau soi đó, trước sau đuổi nhau, lấy tâm dụng tâm, tâm ắt thành cảnh. Cái nguyên tắc buổi đầu đã thành tâm cảnh rồi, lần lượt lại chẳng kham.
Như niệm sau chẳng nhận tự không có chỗ khởi diệt, chính nơi đó là giải thoát. Niệm vốn chẳng sanh sao lại có ý tưởng có, không làm lưu ngại? Một niệm ngộ tâm liền thành chánh giác, chính là nơi đây vậy. Niệm niệm không sanh, niệm niệm không tướng cùng với hư không đồng, chạm vật gặp duyên đều là diệu dụng Phật, không có mảy tơ đối đãi. Hạt châu trong chéo áo riêng soi sáng khắp thế gian mười phương, việc này mục kích liền rõ, chẳng đợi dấy ý rồi sau mới biết, sự nghiệp đại trượng phu này không thể chẳng thành tựu. Nếu tâm muốn “cầu phải” liền có pháp “chẳng phải” làm chướng ngại, muốn cầu “đắc niệm”, là lý do trước sau đều “thất niệm”. Ngày đêm không tự tại cầu đạo cùng đạo hiệp, song không một mảy may nào để hiệp. Càng gấp càng chẳng hiệp, bệnh tại chỗ lấy một bỏ một, kẻ không khéo dụng tâm chẳng được yếu thuật, mờ mịt không hiểu, mỗi ngày cùng đạo càng xa.
Chẳng chấp bỏ một bên đến hai bên. Phải biết rõ ràng rành rẽ, rõ ràng tác dụng nhận thẳng hội lấy, chuyển phàm thành thánh, chuyển sắt thành vàng. Cần được lối tắt, không thể chẳng như thế mà nghiên cứu, chỉ e người chạy theo đầu, một đã chẳng thành, hai lại chẳng phải, chẳng biết huyền chỉ, luống nhọc tịnh niệm. Nhị thừa do đoạn phiền não mà được chẳng chứng đạo gọi là tu Thiền Lệch, chẳng bằng ứng niệm liền hóa thành Vô Thượng, hiểu biết ấy rất là chóng.
Người tu hành khi gặp phiền não khởi thì phải làm sao? Cổ nhân nói: “Chỉ dùng chánh tri kiến trị nó”. Tôi thì chẳng thế, chỉ dùng phiền não mà trị nó. Nhìn lại phiền não này chẳng thấy có phiền não? Như lửa không thể đốt lửa, nước chẳng thể ướt nước, vì thể tánh đồng một không thể hiện bày. Đây rõ phiền não vốn không, chẳng cần trừ dẹp nên khởi trí đoạn trị, đè bẹp lại thành dụng tâm khác, có đối đãi thì bị hai ảnh lỗi quanh, dù có được cũng có phần hạn, người tu hành phải đi đường thẳng tắt là trên hết. Cổ nhân nói: “Kiếp hỏa từng đem không hơi thổi, chẳng nhọc công lực liền đó chết”. Đó là ý này vậy.
Có khi ngồi tĩnh tọa, tâm niệm chạy lăng xăng, hoặc lúc gặp việc hoàn toàn mất hết đều bởi chưa được thân chứng. Bởi rơi vào hai, vào ba nên sanh lầm lẫn, lần lượt mất sạch. Cổ nhân nói: “Động tĩnh chẳng hai, chơn vọng chẳng hai. Ngài Duy Ma nói “Rõ tất cả pháp đều vào môn bất nhị”. Nếu nhận lãnh yếu chỉ này thì muôn cái động tự tịch diệt. Như mắt không đến sắc, sắc không đến mắt, tiếng chẳng đến tại, tại chẳng đến tiếng, mỗi pháp đều như thế, nguyên là kho công đức của tự tâm, chẳng nên lấy bỏ. N gười khế ngộ đi đến đâu mà chẳng có lợi. Đẩy chính là Na Già Đại Định.
Người sanh ra đời liền tự nhận học Đạo là do thời trước từng gieo trồng căn lành. Bởi có cội gốc liền biết phát tâm, cũng biết khởi nghi. Đến nơi mình mà tầm cứu, lại phiền não chướng mỏng yếu, có nhân duyên nên người này dễ hóa độ. Nếu người chưa huân tập tâm này thì chánh tín chẳng sanh, dù có nghe cũng chẳng sanh nghi, chỉ như gió thổi qua tai, khuyên dạy lại tâm sân hận phỉ báng thì có duyên gì mà được hiển bày. Do đó nên trong ngàn người chỉ được có một, hai người thôi. Nếu người tự hiểu tạo kế sống, thâu thập được đầy đủ thì đời đời từ đây mà đi, lần lượt sáng suốt nhạy bén, lại không thối thất công đức, một đời hơn một đời vào khuôn vực của chư Phật. Họ cùng sự tương ưng, dù sinh trên trời, có người cũng chỉ như thế, đối đầu với ngũ dục, bát phong và tất cả cảnh giới đều cùng lý phù hợp. Kẻ ấy chẳng đi trong tam giới, chỉ một vị bình đẳng chánh tri kiến, đâu còn việc gì.
Sanh tử chẳng thể chẳng sợ, phải rõ một đoạn tình ngụy sanh tử này mới được an lạc không gì hơn. Thân tâm là mối luỵ: thân giống như gông cùm, phải biết chỗ thân đi đến; tâm như khỉ vượn, phải biết chỗ tâm khởi diệt. Hai cái này từ chỗ nào đi đến? Khi khởi diệt thì thân tâm tròn sáng, trong ngoài nhất như, vả lại tâm là ở trong, thân ở ngoài, thân là trong thì vật là ngoài. Quốc sư bảo: “Thân tâm nhất như, ngoài thân không thừa”. Thế thì không thấy có sanh tử chống lại mình, nên gọi là giải thoát đại đạo. Cho nên hay khiến người nghe thấy đâu chẳng được thoát, do chẳng thoát ý tưởng, đâu chẳng được chẳng dứt vật cảnh, đâu chẳng được dung thông, lại còn nghi ngờ ư?
(Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch)
BA ĐIỀU TỰ TỈNH XÉT MÌNH
-
Thọ mạng của thân này giống như bóng ngựa chạy nhanh qua trước khe cửa, rảnh đâu mà chạy theo tình bâng quơ và dối làm những việc tạp nhạp? Đã muốn làm hưng thịnh dòng họ Thích, nối dõi môn phong thì hãy xét kỹ tông chỉ của người xưa xem, đó là những tiêu chuẩn gì?
-
Đạo nghiệp của mình chưa xong, lại cách Thánh càng xa nữa, nếu có thầy lành bạn tốt chỉ dạy, thì đừng nên rời bỏ, mà phải tự mình sanh lòng hăng hái cố gắng lên, và nghĩ đến việc đáp đền ơn Phật. Việc này chỉ mình biết thôi, chớ có lui sụt đại tâm.
-
Báo duyên, tức thân này vốn hư huyễn, chẳng nên gượng làm. Cõi đời phù du nào có bao lâu. Nên tùy theo gia cảnh mà phong lưu hay tiết kiệm. Dù khổ vui, dù thuận nghịch, đạo vốn đã ở trong ấy rồi; dù động tịnh, dù ấm lạnh, cũng tự mình hổ thẹn, tự mình ăn năn lấy mà thôi!
THÀNH VẤN THOẠI
Thời đại gần đây lời hỏi đáp, phần nhiều là chê bai và phỉ báng. Bởi do chẳng biết rõ ý hỏi đến cái nghi mà thưa thỉnh.
Đời sau nối tiếp nhau, phần nhiều lời nói dùng chúc tán thuận theo thời đều chẳng phải kiến lập trong tông thừa.
Như người xưa nói: Làm sao ra khỏi ba cõi? Lại hỏi: Thinh sắc làm sao thấu qua được? Lại hỏi: Dạo này về tông thừa, Hòa thượng luận bàn ra sao? Đều là lời của kẻ xuất chúng nêu lên để quyết trạch cho.
Gần đây, huynh đệ tiến được không? Bốn, năm chuyển ngữ là chôn vùi thiền cơ (cơ phong), hoặc có người vâng theo ở tòa dành cho viên quan, hoặc trang nghiêm bày sửa cho đàn việt, đều chẳng phải là khí vị của hàng nạp tăng. Lại đưa thân ra khỏi chúng mà nói được vài câu, hoặc có khi nói: “Con thì chẳng nói thế ấy”. Lại nói: “Hòa thượng sao chẳng nói?”. Người hỏi thoại đều là phô trương chỗ huyền cực, nhưng chẳng nhiều, người nói được hai, ba chuyển thôi. Quý là được người đời tin, chẳng đến nỗi hoang đàng làm cho kẻ tục chê cười vậy.
(CỔ TÔN TÚC NGỮ LỤC QUYỂN 34 HẾT)
PHẦN PHỤ LỤC
✅ Sư thường đề ngữ trên vách nhà Diên Thọ tại Long Môn:
Phật cho người có bệnh phải điều trị, cho có chỗ sắp tắt thở, trong thiền lâm có nhiều tên. Hoặc nói: Niết-bàn, thấy pháp thân thường trụ rõ pháp chẳng sanh. Hoặc nói: Tỉnh hành, biết duyên trái buộc này đều từ hành khổ. Hoặc nói: Diên Thọ, muốn được thọ mạng gìn giữ sắc thân. Kỳ thật khiến người rõ chỗ sanh tử. Phần nhiều thấy có chút ít bệnh liền vào nhà này. Nếu không chống lại lời tôi, liền có bổ ích. Đến người mắc bệnh lâu bèn nghĩ nhớ quê hương là không tốt, phải nghĩ lui lại để diệt trừ gốc bệnh. Thánh trước nói: Bệnh là thuốc hay của chúng sanh, nếu khéo uống đều được lành bệnh vậy.
(trích trong Thiền Sư Trung Hoa tập 3 của Hòa Thượng Thích Thanh từ dịch)
✅ Thư Gửi Chân Mục (Chân Mục Chính Hiển, pháp tự của ngài Phật Nhãn Thanh Viễn), Hòa thượng Phật Nhãn Viễn nói:
Dáng dấp khi tới chỗ đại chúng nhất định phải nghiêm nghị như những ngày nhàn nhã; lời nói đối với tân khách nên trang trọng như lúc ở yên một mình. Người trong chốn tòng lâm khi thốt ra lời nào hay muốn làm việc gì, nhất cử nhất động đều phải suy nghĩ tính toán trước, sau đó mới làm, đừng có hấp tấp vội vàng.
Nếu như tự mình không thể quyết đoán được sự việc, phải nên thưa thỉnh bậc lão túc và hỏi lấy ý kiến của bậc Tiên hiền để rộng mở thấy nghe hầu bổ sung vào chỗ chưa hay, cũng như soi sáng điều mình chưa hiểu tới. Chứ có đâu lại làm ra vẻ có khí thế và khoe khoang hành vi cống cao, ngã mạn! Ấy là tự mình phơi bày chân tướng xấu xa của chính mình thôi.
Nếu một nết hạnh đã bị mất trước đây rồi, thì sau này dẫu có trăm điều hay đi chăng nữa cũng không thể che lấp được.
✅ Thư Gởi Cảnh Long Học, Ngài Phật Nhãn nói:
Người ta sanh ra trong vũ trụ này là do hấp thụ khí âm dương mà thành hình. Nếu tự mình không phải là bậc Ứng Chân (tức bậc A La Hán, đáng được nhận sự cúng dường của người trời) nương vào sức từ bi và hạnh nguyện mà xuất hiện ở đời, thì tâm danh lợi và lòng tham muốn tựa hồ như không thể gột bỏ được. Chỉ có bậc Thánh nhân mới biết danh lợi và dục vọng của con người không thể bỏ được nên trước hết đem đạo đức để uốn nắn tâm mình, sau đó lấy nhân, nghĩa, lễ, trí để giáo hóa và đề phòng. Cứ hết ngày tới tháng rèn luyện như thế khiến cho danh lợi và dục vọng kia không làm sao thắng được nhân, nghĩa, lễ, trí mà đạo đức được toàn vẹn vậy.
✅ Long Gian Ký Văn, Ngài Phật Nhãn nói:
Người học đạo không nên chấp chặt vào văn tự, ngôn ngữ; bởi vì văn tự, ngôn ngữ dựa vào sự hiểu biết của người khác nên làm chướng ngại cửa chứng ngộ của chính mình, và không thể thoát khỏi biểu tượng của ngôn ngữ, văn tự. Xưa kia, ngài Đạt Quán Dĩnh (ngài Kim Sơn Đàm Dĩnh, pháp tự của ngài Thạch Môn Thông - Cốc Ẩn Uẩn Thông), ban đầu tham kiến Hòa thượng Thạch Môn Thông, trong thiền thất ngài hay có những lời biện luận ngoài đầu lưỡi. Hòa thượng Thạch Môn Thông nói: “Những điều ông nói chỉ là lời lẽ trên giấy mực, nếu bàn đến chỗ tinh vi về phần tâm của ông, thì vẫn chưa thấy được áo diệu. Phải làm sao tìm vào diệu ngộ mới được!”. Bởi có diệu ngộ mới siêu việt hết thảy, chẳng nương vào ngôn ngữ, văn tự, cũng chẳng chấp trên câu văn nữa. Khi ấy, như sư tử vương gầm rống lên thì trăm con thú đều phải giật mình, hoảng sợ. Nếu ngoảnh lại xem cái học về văn tự mà so sánh thì làm sao có thể sánh được mười với trăm, ngàn với vạn?!
✅ Ngài Phật Nhãn nói với ngài Cao Am (Cao Am Thiện Ngộ, pháp tự của ngài Phật Nhãn Thanh Viễn):
Thanh quy của Tổ Bá Trượng đại khái là nêu lên việc chính và kiểm xét điều tà, làm khuôn phép cho người và làm tề chỉnh đại chúng; và cũng là nhân thời cơ đó để từ chế ngự tình thức cho người sau. Tình người giống như nước, còn quy củ và lễ pháp là bờ đê. Bờ đê mà không vững chắc tất nhiên sẽ có ngày bị nước xói thủng, vỡ lở. Tình người mà không chế ngự thì phóng túng, loạn động. Cho nên muốn bỏ tình dứt vọng, cấm ác ngăn tà thì không thể nào trong một lúc mà bỏ quên quy củ được. Thế thì, quy củ và lễ pháp đâu thể ngăn ngừa hết được tình người. Đó chẳng qua là thềm bậc giúp cho người ta vào đạo thôi. Việc lập ra quy củ đã rõ ràng như mặt trời mặt trăng để người trông thấy không bị mê mờ; và thênh thang như con đường rộng lớn để người đi không bị lầm lạc vậy. Bậc Tiên Thánh tuy lập ra quy củ có khác nhau nhưng mục đích về nguồn thì không khác.
✅ Đông Hồ Tập:
Trong chốn tòng lâm thời gần đây có người hết lòng noi theo quy củ, có người giữ chặt quy củ cho đến chết, cũng có người coi thường quy củ. Những người đó đều làm trái đạo, mất lễ và chỉ là do buông theo tình, đuổi theo ác mà dẫn đến như thế. Họ đâu nghĩ rằng, bậc Tiên thánh vì cứu vớt cái tệ ở đời mạt pháp mà cấm chỉ cái tâm tình phóng dật, bít lấp đầu mối của lòng tham muốn và dứt bỏ con đường tà vạy, nên mới dựng lập ra quy củ vậy.
✅ Chân Mục Tập, Ngài Phật Nhãn nói với ngài Cao Am:
Những người tuy thấy được vật rất nhỏ như lông con thú mùa Thu mà không thấy được lông mi mắt của chính mình. Những người tuy có thể nhấc được vật nặng nghìn quân (30 kg = 1 quân) nhưng không tự nhắc nổi thân mình. Cũng như người học đạo chỉ sáng suốt ở việc trách người mà lại mờ mịt ở phần suy xét mình, thật không khác chút nào vậy.
✅ Thư Gởi Cảnh Long Học, Ngài Phật Giám nói:
Đệ tử của ngài Phật Nhãn chỉ có ngài Cao Am (Thiện Ngộ) là người cương trực, thẳng thắn, chẳng gần gũi nhân tình. Làm người thì không ham thích gì, làm việc lại không lôi kéo bè đảng; và có đức thanh tịnh, trang nghiêm kính cẩn, trước sau đều lấy danh tiết để tự lập, có phong cách cổ nhân. Hàng nạp tăng thời gần đây ít ai sánh kịp.
Ngài Cao Am là người đoan trang, chính trực từ trong tâm cũng như biểu hiện ra hình tướng bên ngoài, phong cách oai nghiêm, đi đứng đều không quên lễ nghi và pháp độ. Ngày còn ở trong chúng. ngài thường thấy có điều gì xâm hại, cũng không màng để ý tới. Trọn đời ngài lấy việc giản ước để xử sự cho mình. Trong thiền thất, ngài không bao giờ hứa khả cho một ai không có lý do chính đáng. Nếu ai hơi có điều gì không khế hợp căn cơ, ngài nghiêm sắc mặt nói thẳng để ngăn cản ngay, cho nên hàng nạp tăng ai nấy đều tín phục.
Ngài thường nói: “Tôi học đạo không hơn người, nhưng bình sanh làm việc gì cũng không để hổ thẹn với lương tâm mình”.